Quản lý nhà nước và mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục đào tạo qua kết quả khảo sát

TÓM TẮT

Bài viết tập trung vào việc giới thiệu kết quả khảo sát của một đề tài nhánh do Viện

Nghiên cứu Giáo dục thực hiện. Đề tài này thuộc chương trình nghiên cứu độc lập cấp

Nhà nuớc “Phát triển Giáo dục Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và trước yêu cầu hội

nhập quốc tế” của Hội đồng Quốc gia Giáo dục. Bài viết chủ yếu giới thiệu về một số quan

điểm và lí luận về quản lí nhà nước và tự chủ trong giáo dục, các kết quả khảo sát và một

số kiến nghị cho các nhà làm chính sách cũng như các cơ sở GD-ĐT.

pdf 8 trang yennguyen 6960
Bạn đang xem tài liệu "Quản lý nhà nước và mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục đào tạo qua kết quả khảo sát", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản lý nhà nước và mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục đào tạo qua kết quả khảo sát

Quản lý nhà nước và mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục đào tạo qua kết quả khảo sát
Tư liệu tham khảo       Số 31 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VÀ MỨC ĐỘ TỰ CHỦ 
CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO 
QUA KẾT QUẢ KHẢO SÁT 
NGUYỄN KIM DUNG* 
TÓM TẮT 
Bài viết tập trung vào việc giới thiệu kết quả khảo sát của một đề tài nhánh do Viện 
Nghiên cứu Giáo dục thực hiện. Đề tài này thuộc chương trình nghiên cứu độc lập cấp 
Nhà nuớc “Phát triển Giáo dục Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và trước yêu cầu hội 
nhập quốc tế” của Hội đồng Quốc gia Giáo dục. Bài viết chủ yếu giới thiệu về một số quan 
điểm và lí luận về quản lí nhà nước và tự chủ trong giáo dục, các kết quả khảo sát và một 
số kiến nghị cho các nhà làm chính sách cũng như các cơ sở GD-ĐT. 
Từ khóa: tự chủ, đại học, chính sách, nhà nước, quản lí. 
ABSTRACT 
Surveying the state administration and self-governed levels 
 of educational institutes 
The paper focuses on introducing the findings of a survey from a project conducted 
by the Institute for Educational Research. This is a sub-project of an independent national 
project “Developing Vietnam Education System in the Context of Market Oriented 
Economy and with the Requirements of International Globalization” by National Educatio 
Committee. The paper mainly introduces several perspectives and opinions on government 
management and authonomy in education, the findings of the survey and some 
recommendation for policy makers at the national level as well as educational and training 
institutions. 
Keywords: authonomy, higher education, policy, government, management. 
1. Vai trò của quản lí nhà nước và 
vấn đề tự chủ trong giáo dục 
1.1. Vai trò của quản lí nhà nước trong 
giáo dục 
Trước đây, cùng với việc mở rộng 
quy mô đào tạo trong nhiều hệ thống giáo 
dục đại học (GDĐH) ở các nước, các 
trường đại học (ĐH) cũng đồng thời nhận 
được sự hỗ trợ về tài chính của Nhà 
nước/Chính phủ. Tuy nhiên, theo thời gian, 
khuynh hướng này ngày càng thay đổi. 
 * TS, GVC, Phó Viện trưởng 
Viện Nghiên cứu Giáo dục Trường ĐHSP TPHCM 
Nhà nuớc ở nhiều quốc gia trên thế giới 
không còn là nơi duy nhất cung cấp tài 
chính cho các cơ sở GD-ĐT (GD-ĐT) và 
các trường ĐH không còn là nơi duy nhất 
cung cấp GDĐH (UNESCO, 2010). 
Ngày nay, có nhiều dạng cơ sở và hình 
thức GD-ĐT, tuy nhiên, đối với các 
trường ĐH-CĐ công lập, nhà nước vẫn là 
cơ quan quản lí chính do kinh phí từ ngân 
sách vẫn là nguồn thu chính của phần lớn 
các trường. Tuy nhiên, hiện nay, có rất 
nhiều ý kiến cho rằng mô hình các trường 
ĐH công lập dưới sự quản lí trực tiếp của 
 210 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM       Nguyễn Kim Dung 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Nhà nước ngày càng có nhiều bất cập, 
cần được xem xét, bổ sung cho phù hợp. 
Theo UNESCO (2010), nhu cầu cải 
tổ với tên gọi là mô hình “quản lí nhà 
nước mới” bắt đầu thu hút sự chú ý của 
nhiều hệ thống GDĐH. Với sự phát triển 
của xu hướng vận dụng yếu tố thị trường 
trong GDĐH và sự cắt giảm ngày càng 
nhiều ngân sách nhà nước dành cho 
GDĐH, các trường ĐH đang tìm các 
nguồn kinh phí khác bên ngoài ngân 
sách. Theo mô hình này, chất lượng GD-
ĐT được cải tiến với các cơ chế quản lí 
hiệu quả hơn, mức độ minh bạch trong 
việc sử dụng nguồn lực và tính trách 
nhiệm xã hội với cộng đồng cũng như với 
những người hưởng lợi từ GDĐH cũng 
cao hơn. Theo cơ chế này, tính sở hữu và 
tính trách nhiệm thông qua sự tham gia 
vào việc hoạch định sự phát triển và sứ 
mạng của nhà trường ngày càng thu hút 
được nhiều chú ý của cộng đồng các 
trường ĐH. Cũng với cơ chế này, vấn đề 
quản trị nhà nước vượt ra khỏi ranh giới 
của việc đảm bảo công tác quản lí khu 
vực công không những trở nên tốt hơn 
mà còn là vấn đề tăng cường sự tham gia 
của những người hưởng lợi khác nhau ở 
các cấp độ khác nhau. 
1.2. Tính tự chủ của các cơ sở GD-ĐT 
Các nghiên cứu về mối quan hệ 
giữa quản lí nhà nước và tính tự chủ của 
các trường ĐH ngày càng được chú 
trọng, trong đó vấn đề tập trung quyền 
lực và vấn đề phân quyền có liên quan 
đến các vấn đề như tính trách nhiệm 
trong hệ thống ĐT giáo viên (GV), kiểm 
soát ngân sách, thiết kế chương trình ở 
các cấp độ khác nhau như quốc gia, địa 
phương, vùng miền hay ở mức độ nhà 
trường. Bên cạnh đó, việc quản lí các 
phương thức đào tạo theo hướng phát 
triển nhận thức và đào tạo kỹ năng cũng 
cần được thảo luận ở tất cả các cấp, khi 
chính phủ các nước mong muốn kiểm 
soát chất lượng đào tạo ở các trường ĐH 
nhằm hướng các mục đích GD-ĐT vào 
việc phục vụ nguồn nhân lực quốc gia, 
trong khi các trường ĐH lại có khuynh 
hướng tập trung vào sứ mạng và mục tiêu 
cụ thể của mình, cân đối các nguồn 
thu/chi trong ngân sách (do kinh phí từ 
nhà nước ngày càng giảm). Khuynh 
hướng này tạo tiền đề cho các mong 
muốn về tính tự chủ, trong đó có tự chủ 
về tài chính, chương trình và quản lí. 
Tính tự chủ của các trường ĐH 
công lập và sự tăng trưởng nhanh chóng 
về số lượng các trường ĐH ngoài công 
lập làm thay đổi bức tranh tổng thể về 
mối quan hệ quản trị và quản lí nhà nước 
của Chính phủ với các trường ĐH. Các 
điều kiện về dịch vụ cung cấp chất lượng 
và vấn đề chất lượng đầu ra khiến cho 
các trường ĐH cũng ngày càng trở nên 
khác nhau. Sự đa dạng về các loại hình 
trường, chương trình ĐT làm cho vấn đề 
quản lí nhà nước trở nên phức tạp hơn và 
đòi hỏi sự thay đổi về cơ chế nếu không 
muốn trở thành lực cản đối với sự phát 
triển của hệ thống. Nói tóm lại, khuynh 
hướng phát triển của hệ thống giáo dục 
hiện nay đòi hỏi sự tái cấu trúc về cơ chế 
quản lí ở tất cả các cấp độ: nhà nước và 
các trường ĐH, cũng như cấp độ khoa/bộ 
môn trong vấn đề quản lí mục tiêu 
nhiệm vụ, nhân sự, tài chính và 
chương trình. 
 211
Tư liệu tham khảo       Số 31 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Với những vấn đề nêu trên, đề tài 
nhánh của đề tài độc lập cấp nhà nước 
“Phát triển giáo dục Việt Nam trong nền 
kinh tế thị trường và trước yêu cầu hội 
nhập quốc tế” tập trung vào mục tiêu 
khảo sát thực trạng chất lượng và nhận 
thức của các đối tượng có liên quan đến 
hệ thống giáo dục Việt Nam. Đề tài đặt ra 
nhiệm vụ chính là nghiên cứu và đánh giá 
về: (i) Mức độ đáp ứng của GD-ĐT đối 
với nhu cầu xã hội; (ii) Khảo sát thực 
trạng quan hệ, hợp tác, hỗ trợ, phối kết 
hợp giữa GD-ĐT và các tổ chức cộng 
đồng; (iii) Tự chủ của các cơ sở GD-ĐT; 
(iv) Quan niệm về thị trường giáo dục; 
(v) Tác động của kinh tế thị trường 
(KTTT) lên GD-ĐT; (vi) Mong muốn về 
chất lượng giáo dục; và (vii) Các giải 
pháp nâng cao chất lượng giáo dục. 
2. Giới thiệu đề tài nghiên cứu 
Như đã đề cập, đề tài này được thực 
hiện trong khuôn khổ đề tài chính “Phát 
triển giáo dục Việt Nam trong nền kinh tế 
thị trường và trước yêu cầu hội nhập 
quốc tế” của Hội đồng Quốc gia Giáo 
dục. Bài viết này chỉ tập trung vào việc 
báo cáo kết quả mục tiêu số 2 và số 3 của 
đề tài là khảo sát thực trạng quan hệ, hợp 
tác, hỗ trợ, phối kết hợp giữa các cơ sở 
GD-ĐT và các tổ chức cộng đồng và mức 
độ tự chủ của các cơ sở GD-ĐT. 
Với các mục tiêu được giới thiệu 
như trên, các đối tượng tham gia khảo sát 
là toàn bộ các đối tượng đại diện cho 
những người trực tiếp tham gia vào GD-
ĐT và những người hưởng lợi từ GD-ĐT, 
trong đó có những người sử dụng sản 
phẩm GD-ĐT. Có tất cả 11 tỉnh thành 
tham gia với 112 đơn vị trường và cơ 
quan/công ty. Tỉ lệ phân chia theo các đối 
tượng khảo sát của từng địa phương tuy 
không đồng đều nhưng vẫn bảo đảm tính 
khoa học và độ tin cậy của thông tin phản 
hồi. 
Đề tài đã tiến hành phát ra tất cả là 
6 600 phiếu và thu về là 4 473 phiếu, với 
tỉ lệ phản hồi là 68%. Tỉ lệ này là tương 
đối cao so với yêu cầu của việc khảo sát 
trong lĩnh vực giáo dục. Trong tổng số 
các phiếu thu được, sau khi trừ đi các đối 
tượng là cán bộ quản lí (CBQL), GV, học 
sinh và phụ huynh phổ thông (PT), các 
đối tượng có liên quan đến GDĐH còn 
lại là 2 121, chiếm hơn 47% toàn bộ mẫu 
nghiên cứu. Trong bài viết này, chúng tôi 
chỉ tập trung vào đối tượng tham gia GD-
ĐT bậc ĐH (xem bảng 1). 
Bảng 1. Tần số và tỉ lệ phần trăm các đối tượng được khảo sát (N=4 473) 
Đối tượng tham gia khảo sát Tần số Tỉ lệ phần trăm 
Nhà tuyển dụng 107 2,4
Cán bộ quản lí giáo dục đại học (CBQL GD ĐH) 126 2,8
Giảng viên ĐH (GV ĐH) 286 6,4
Phụ huynh ĐH (PH ĐH) 189 4,2
Sinh viên ĐH (SV) 972 21,8
Học sinh phổ thông (HSPT) 1 429 32,0
 212 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM       Nguyễn Kim Dung 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Phụ huynh HS (PHHS) 285 6,4
Giáo viên PT 394 8,8
CBQL GD PT 244 5,4
Cựu SV 331 7,4
Nhà nghiên cứu GD (NCGD) 110 2,4
Tổng 4 473 100,0
3. Kết quả khảo sát 
Phần này sẽ trình bày kết quả theo 
mục tiêu của khảo sát nhằm tìm hiểu thái 
độ, đánh giá và quan điểm, ý kiến của các 
đối tượng có liên quan xoay quanh trọng 
tâm của đề tài mức độ tự chủ của các cơ 
sở GD-ĐT, cụ thể: thực trạng quan hệ, 
hợp tác, hỗ trợ, phối kết hợp giữa GD-ĐT 
và các tổ chức cộng đồng; mức độ tự chủ 
của các cơ sở GD-ĐT. 
3.1. Thực trạng quan hệ hợp tác, hỗ trợ, 
phối kết hợp giữa các cơ sở GD-ĐT và 
các tổ chức cộng đồng 
Qua kết quả khảo sát dưới đây, có 
thể thấy các nhà tuyển dụng cho rằng 
chưa có mối quan hệ gắn kết với các cơ 
sở GD-ĐT, đặc biệt là trong các lĩnh vực 
sau: (i) Đặt hàng cho các cơ sở GD-ĐT; 
(ii) Hỗ trợ giáo dục (kinh phí, công nghệ, 
sản phẩm, cơ sở vật chất... ); (iii) Phản 
hồi chất lượng về người được tuyển 
dụng; (iv) Tham gia quá trình đào tạo 
(giảng dạy, thực tập...), Các hoạt động 
như: Tham gia xây dựng chương trình 
đào tạo, thông báo tuyển dụng và liên kết 
đào tạo cũng chưa được thực hiện thường 
xuyên (xem bảng 2). 
Bảng 2. Mối quan hệ giữa nhà trường và nhà tuyển dụng 
Đơn vị mà Ông/ Bà đang công tác thường 
xuyên thực hiện các hoạt động dưới đây 
với/cho các cơ sở giáo dục 
Từ thường 
xuyên đến 
rất thường 
xuyên 
Bình 
thường 
Ít hoặc 
không 
bao giờ 
1) Liên kết đào tạo 37,3 28,0 34,6 
2) Thông báo tuyển dụng 31,7 36,5 31,7 
3) Đặt hàng cho các cơ sở GD-ĐT 18,1 31,4 50,5 
4) Tham gia xây dựng chương trình đào tạo 30,8 22,4 46,7 
5) Phản hồi chất lượng về người được tuyển 
dụng 27,0 35,8 47,2 
6) Tham gia quá trình đào tạo (giảng dạy, 
thực tập) 29,5 25,7 44,8 
7) Hỗ trợ giáo dục (kinh phí, công nghệ, sản 
phẩm, cơ sở vật chất) 26,2 20,0 44,9 
 213
Tư liệu tham khảo       Số 31 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Điều này cho thấy hệ thống GD-ĐT 
Việt Nam vẫn còn chưa chú trọng nhiều 
đến việc lấy ý kiến xã hội, nhà tuyển 
dụng cũng như thị trường lao động nhằm 
cải tiến chất lượng đào tạo, cũng như 
chưa có sự gắn kết giữa đào tạo và thị 
trường lao động. Thực tế cho thấy, tuy 
các trường ý thức và có những thay đổi 
phù hợp hơn trong nền kinh tế thị trường 
với việc mở rộng quy mô đào tạo về mọi 
mặt, nhưng công tác quan hệ, hợp tác hỗ 
trợ và phối kết hợp của nhà trường với xã 
hội, một trong những yếu tố cần thiết 
trong nền kinh tế thị trường, là chưa thực 
sự mạnh. Các ý kiến khảo sát các nhà 
tuyển dụng và quản lí các trường cho 
thấy việc hợp tác, phối kết hợp chưa 
mang tính thực tiễn và ứng dụng cao. 
Kết quả về thực trạng hợp tác, hỗ 
trợ giữa các cơ sở GD-ĐT và các tổ chức 
cộng đồng thể hiện qua bảng 3. 
Bảng 3. Thực trạng quan hệ hợp tác, hỗ trợ, và phối kết hợp 
với các tổ chức cộng đồng (theo tỉ lệ) 
Đơn vị mà Ông/ Bà đang công tác 
thường xuyên thực hiện các hoạt động 
sau đây với các tổ chức cộng đồng 
trong: 
Phụ 
huynh 
Cơ quan, 
tổ chức, 
đoàn thể 
nhà nước 
Doanh 
nghiệp 
Các 
trường 
khác 
1) Đào tạo đội ngũ 9,9 57,1 5,9 26,7 
2) Nhận sự hỗ trợ bằng cách mời chuyên 
gia đến trường 8,5 47,9 17,5 25,6 
3) Mời tham gia các hoạt động của 
trường 27,4 34,3 17,3 20,2 
4) Hợp tác nghiên cứu khoa học/chuyển 
giao công nghệ 11,8 61,2 13,1 13,5 
5) Tổ chức đối thoại, phản biện về công 
tác GD-ĐT 34,4 36,1 11,1 18,0 
Về quan hệ hợp tác giữa nhà trường 
với xã hội, bảng 3 cho thấy, nhà trường 
có mối quan hệ nhiều hơn với các cơ 
quan, tổ chức, đoàn thể nhà nước, xếp 
thứ hai là giữa các trường với nhau. Quan 
hệ giữa nhà trường với phụ huynh, người 
hưởng lợi với “khách hàng” trực tiếp, và 
doanh nghiệp, nơi sử dụng nhân lực là 
chưa nhiều. Có thể rút ra kết luận từ kết 
quả này: yếu tố quản lí nhà nước và quan 
hệ nhà nước với các cơ sở GD-ĐT tại 
Việt Nam là còn khá cao, trong khi mối 
quan hệ xã hội và yêu cầu đáp ứng nhu 
cầu lao động còn chưa được chú ý nhằm 
xây dựng nguồn nhân lực đào tạo thiết 
thực hơn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực 
tế. 
3.2. Mức độ tự chủ của các cơ sở GD-
ĐT hiện nay 
Một trong những vấn đề thu hút dư 
luận xã hội trong thời gian gần đây là vấn 
đề tự trị/tự chủ của các cơ sở GD-ĐT, 
đặc biệt là các trường ĐH, CĐ. Các đối 
tượng khảo sát đã đánh giá mức độ tự 
chủ của các cơ sở GD-ĐT này (xem 
bảng 4). 
 214 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM       Nguyễn Kim Dung 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Bảng 4. Đánh giá về mức độ tự chủ của cơ sở GD-ĐT 
Trường Ông/Bà có mức độ tự chủ Rất cao Cao 
Trung 
bình Thấp 
Rất 
thấp 
1) Tự định mức thu học phí 5,6 23,4 46,5 14,6 10,0 
2) Tự xây dựng cơ sở vật chất 5,8 30,6 40,6 18,7 4,3 
3) Tự xác định quy mô đào tạo 6,5 36,7 39,6 12,9 4,2 
4) Tự xác định nguồn tuyển sinh 7,0 38,6 35,1 15,1 4,2 
5) Trả thù lao giảng viên theo thỏa 
thuận 
4,4 22,4 47,9 17,2 8,1 
6) Có quyền quyết định chi tiêu tài 
chính 
5,8 33,9 42,9 13,0 4,4 
7) Có quyền quyết định thuê mướn giáo 
viên 
6,4 36,9 36,7 13,1 6,8 
8) Có quyền quyết định chương trình 
đào tạo 
4,1 30,7 37,4 17,1 10,7 
9) Có quyền quyết định trong hợp tác 
quốc tế 
7,3 33,0 32,5 16,0 11,3 
Quyền tự chủ của các cơ sở GD-
ĐT, mà cụ thể là các trường ĐH, trong 
các hoạt động có liên quan đến tài chính, 
quy mô đào tạo, cơ sở vật chất, tuyển 
sinh đầu vào, chương trình đào tạo, nhân 
sự còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi 
trong giáo dục. Các ý kiến phản hồi của 
những người tham gia khảo sát (CBQL 
và GV, nhà nghiên cứu) cho thấy các 
trường ĐH Việt Nam còn chưa có nhiều 
quyền tự chủ, đặc biệt là trong lĩnh vực 
tài chính, trong đó có quyền chi trả cho 
GV theo thỏa thuận, cơ sở vật chất, học 
phí, chi tiêu tài chính. Chương trình đào 
tạo cũng là lĩnh vực mà các trường chưa 
có quyền tự chủ cao. 
4. Kết luận và khuyến nghị 
4.1. Kết luận 
Các nhà tuyển dụng cho rằng vẫn 
chưa có mối quan hệ gắn kết với các cơ 
sở GD-ĐT, đặc biệt là trong các lĩnh vực 
sau: Đặt hàng cho các cơ sở GD-ĐT; hỗ 
trợ giáo dục (kinh phí, công nghệ, sản 
phẩm, cơ sở vật chất...); phản hồi chất 
lượng về người được tuyển dụng; tham 
gia quá trình đào tạo (giảng dạy, thực 
tập... ) Các hoạt động như: Tham gia 
xây dựng chương trình đào tạo với nhà 
trường, thông báo tuyển dụng và liên kết 
đào tạo với nhà trường cũng chưa được 
thực hiện thường xuyên. 
Kết quả khảo sát cho thấy hệ thống 
GD-ĐT Việt Nam vẫn còn chưa chú 
trọng lắm đến việc lấy ý kiến xã hội, nhà 
tuyển dụng cũng như thị trường lao động 
nhằm cải tiến chất lượng đào tạo, cũng 
như chưa có sự gắn kết giữa đào tạo và 
thị trường lao động. Thực tế cho thấy 
công tác quan hệ, hợp tác hỗ trợ và phối 
kết hợp của nhà trường với xã hội, một 
 215
Tư liệu tham khảo       Số 31 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
trong những yếu tố cần thiết trong nền 
kinh tế thị trường, là chưa thực sự 
mạnh. Các ý kiến khảo sát các nhà tuyển 
dụng và quản lí các trường cho thấy việc 
hợp tác, phối kết hợp chủ yếu ở mức hình 
thức, chưa mang tính thực tiễn và ứng 
dụng cao. Kết quả khảo sát cũng cho thấy 
nhà trường Việt Nam có mối quan hệ 
nhiều hơn với các cơ quan, tổ chức, đoàn 
thể nhà nước cũng như giữa các trường 
với nhau. Quan hệ giữa nhà trường với 
phụ huynh, người hưởng lợi và “khách 
hàng” trực tiếp, và doanh nghiệp, nơi sử 
dụng nhân lực, là chưa nhiều. Yếu tố 
quản lí nhà nước và quan hệ nhà nước 
với các cơ sở GD-ĐT tại Việt Nam còn 
khá cao, trong khi mối quan hệ xã hội 
và yêu cầu đáp ứng nhu cầu lao động 
còn chưa được chú ý nhằm xây dựng 
nguồn nhân lực đào tạo thiết thực hơn và 
đáp ứng tốt nhu cầu thực tế hơn. Điều 
này cho thấy hệ thống GDĐH Việt Nam 
vẫn còn mang nặng tính sở hữu và quản lí 
nhà nước, trong đó, sự can thiệp của Nhà 
nước vẫn còn sâu và rộng ở nhiều mặt. 
Với cơ chế hiện nay, vấn đề quản trị nhà 
nước của hệ thống GDĐH Việt Nam vẫn 
chưa vượt ra được ranh giới của việc đảm 
bảo công tác quản lí khu vực công, và do 
đó chưa tăng cường sự tham gia của 
những người hưởng lợi khác nhau ở các 
cấp độ khác nhau. 
Các ý kiến phản hồi của những 
người tham gia khảo sát (CBQL và GV, 
nhà NCGD) cho thấy các trường ĐH 
Việt Nam còn chưa có nhiều quyền tự 
chủ, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, 
trong đó có quyền chi trả cho GV theo 
thỏa thuận, cơ sở vật chất, học phí, chi 
tiêu tài chính. Chương trình đào tạo 
cũng là lĩnh vực mà các trường chưa có 
quyền tự chủ cao. Vẫn còn nhiều ý kiến 
cho rằng các điều kiện về dịch vụ cung 
cấp chất lượng và vấn đề chất lượng đầu 
ra khiến cho các trường ĐH ngày càng 
trở nên khác nhau cũng như sự đa dạng 
về các loại hình trường, chương trình đào 
tạo thay đổi nhưng quản lí nhà nước của 
chúng ta vẫn chưa thay đổi nhiều. 
4.2. Các khuyến nghị 
Từ các kết quả trên, chúng tôi có 
các khuyến nghị sau đây: 
Các trường cần xây dựng và phát 
triển các quan hệ hợp tác với xã hội nhiều 
hơn nữa để việc đào tạo nguồn nhân lực 
trong nhà trường trở nên thiết thực hơn 
và đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tế. Để 
thực hiện các thay đổi trên, cần có sự hợp 
tác chặt chẽ của các cơ quan quản lí nhà 
nước, các cơ quan nghiên cứu, các cơ sở 
GD-ĐT, và các nhà tuyển dụng/doanh 
nghiệp/cơ quan sử dụng lao động/người 
tốt nghiệp 
Các cơ quan quản lí nhà nước cần 
có các chủ trương, chính sách nhằm phát 
huy các mặt tích cực và hạn chế các mặt 
tiêu cực của cơ chế thị trường trong GD. 
Cụ thể là: (i) Khuyến khích các trường 
đào tạo theo nhu cầu của xã hội, của 
người học; (ii) Khuyến khích các trường 
xây dựng và tìm kiếm thương hiệu; (iii) 
Tăng tính năng động của các trường; (iv) 
Tạo sự cạnh tranh trong GD-ĐT; (v) 
Tăng cơ hội lựa chọn cho người học; (vi) 
Nâng cao hiệu quả, chất lượng GD-ĐT 
(do gắn với nhu cầu xã hội). 
 216 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM       Nguyễn Kim Dung 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Giai đoạn hiện nay cho thấy bên 
cạnh việc nhà nước tiếp tục tăng cường 
đầu tư cho GD, các giải pháp khác cũng 
cần được chú ý như: (i) Các thành phần 
kinh tế tham gia vào đầu tư phát triển 
GD-ĐT; (ii) Phải có cạnh tranh trong 
GD; (iii) Các trường cần phải được tự 
chủ nhiều hơn; (iv) Nhà nước quản lí chặt 
chẽ chất lượng GD; (v) Kiểm định chất 
lượng giáo dục được thực hiện ở các bậc 
học. 
Nhìn chung, có thể thấy rõ là sự hội 
nhập của các hệ thống giáo dục ở các 
nước là xu thế tất yếu của thời đại hiện 
nay. Ở Việt Nam, còn nhiều vấn đề cần 
được giải quyết về chất lượng GD-ĐT, về 
mức độ tự chủ của các trường, về hợp 
tác, nối kết giữa nhà trường với xã hội 
cũng như các tác động của nền kinh tế thị 
trường lên giáo dục. Kết quả khảo sát 
cũng cho thấy rằng việc tìm một hướng 
đi mới cho các cơ sở GD-ĐT trong bối 
cảnh hội nhập là một bài toán không dễ 
cho các nhà quản lí và những người làm 
chính sách. Các kết quả nghiên cứu giúp 
cho các nhà làm chính sách đưa ra các 
quyết định đúng đắn về vấn đề tăng tính 
hiệu quả của quản lí nhà nước, tăng tính 
tự chủ của các cơ sở GD-ĐT, nhằm nâng 
cao chất lượng giáo dục. Đề tài hy vọng 
rằng các kết quả này sẽ được nghiên cứu 
để đưa ra các quyết định đúng, và là nền 
tảng cho các nghiên cứu tiếp theo với quy 
mô rộng lớn và toàn diện hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 UNESCO (2010), Governance and management, ngày 05-10-2010, 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 28-12-2010; ngày chấp nhận đăng: 12-9-2011) 
 217

File đính kèm:

  • pdfquan_ly_nha_nuoc_va_muc_do_tu_chu_cua_cac_co_so_giao_duc_dao.pdf