Quyền xã hội ở Việt Nam và Đông Á phân tích so sánh thể chế

Tóm tắt: Bài viết phân tích chính sách xã hội ở khu vực Đông Á với quan

điểm so sánh. Bài viết tập trung vào các chính sách bảo hiểm xã hội đang phát

triển ở Việt Nam. Một số điểm nổi bật cũng sẽ được rút ra từ kinh nghiệm phát

triển nhà nước phúc lợi ở Châu Âu, đặc biệt là ở Thụy Điển

pdf 13 trang yennguyen 2240
Bạn đang xem tài liệu "Quyền xã hội ở Việt Nam và Đông Á phân tích so sánh thể chế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quyền xã hội ở Việt Nam và Đông Á phân tích so sánh thể chế

Quyền xã hội ở Việt Nam và Đông Á phân tích so sánh thể chế
Quyền xã hội ở Việt Nam và Đông Á ... 
 63
QUYỀN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM VÀ ĐÔNG Á 
PHÂN TÍCH SO SÁNH THỂ CHẾ(1) 
SEBASTIAN SIRÉN* 
Tóm tắt: Bài viết phân tích chính sách xã hội ở khu vực Đông Á với quan 
điểm so sánh. Bài viết tập trung vào các chính sách bảo hiểm xã hội đang phát 
triển ở Việt Nam. Một số điểm nổi bật cũng sẽ được rút ra từ kinh nghiệm phát 
triển nhà nước phúc lợi ở Châu Âu, đặc biệt là ở Thụy Điển. 
Từ khóa: Thể chế nhà nước phúc lợi, bảo hiểm xã hội, quyền công dân. 
1. Thể chế nhà nước phúc lợi và các 
quyền công dân xã hội 
Các nhân tố chủ chốt của nhà nước 
phúc lợi hiện đại là các chương trình 
bảo hiểm xã hội có mục tiêu đảm bảo 
mức sống cho người lao động khi thu 
nhập không đủ đáp ứng nhu cầu, ví dụ 
trong thời kỳ thất nghiệp, ốm đau hay 
khi về già. Các quyền xã hội về mức 
sống của tất cả công dân được pháp luật 
quy định là một đặc điểm cơ bản của các 
nhà nước phúc lợi hiện đại. Khái niệm 
quyền xã hội được sử dụng làm nền tảng 
cho nhiều nghiên cứu về các thể chế 
chính sách xã hội của các quốc gia. 
Mong muốn đánh giá các quyền xã hội 
được thể chế hóa đã tạo ra các nỗ lực 
đánh giá định lượng các quy tắc điều 
chỉnh chương trình bảo hiểm xã hội (qua 
các chỉ số như tỷ lệ thay thế, độ dài và 
sự che phủ); điều đó cho phép thực hiện 
so sánh giữa các quốc gia(2). Bằng việc 
nêu rõ các đặc điểm mang tính thể chế 
của các nhà nước phúc lợi, những nỗ lực 
này đã đóng góp vào việc phát triển các 
nghiên cứu về nguyên nhân và hệ quả 
của việc mở rộng và thu hẹp nhà nước 
phúc lợi.(*) 
Nghiên cứu trong lĩnh vực này đã xác 
định được các khác biệt giữa các quốc 
gia về cách thức tổ chức của các thể chế 
nhà nước phúc lợi. Một số mô hình có 
tính lý tưởng đã được xác định nhằm ghi 
(1) Bài viết là một báo cáo khoa học được thực 
hiện trong khuôn khổ dự án “Cơ hội cho chính 
sách bảo trợ xã hội ở Việt Nam: Ứng phó với 
toàn cầu hóa, thay đổi về dân số và nghèo đói 
theo kinh nghiệm của Thụy Điển” (2011 - 
2013) do Viện Nghiên cứu Tương lai (Thụy 
Điển) chủ trì tổ chức, với sự phối hợp của Viện 
Nghiên cứu Châu Âu thuộc Viện Hàn lâm Khoa 
học xã hội Việt Nam, do SIDA tài trợ. 
(*) Viện Nghiên cứu xã hội Thụy Điển (Swedish 
Institute for Social Research). 
(2) Cơ sở dữ liệu chỉ số bảo trợ xã hội (SPIN) 
hiện đang được Viện Nghiên cứu Xã hội Thụy 
Điển phát triển nhằm tăng quy mô của những 
chỉ số về quyền xã hội ở một số nước và một số 
lĩnh vực chính sách xã hội. Số liệu về Thụy 
Điển thể hiện trong bài viết này được lấy từ 
phiên bản SPIN thử nghiệm. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 64
lại những khác biệt này. Các cơ quan 
bảo hiểm xã hội cung cấp kết hợp nhiều 
dạng phúc lợi theo thu nhập cho những 
người tham gia thị trường lao động và 
các loại phúc lợi toàn dân cho tất cả mọi 
người trên cơ sở quy chế công dân và độ 
tuổi. Mặt khác, an sinh cơ bản của các 
thể chế nhà nước phúc lợi được đặc 
trưng bởi các phúc lợi giới hạn, thường 
theo mức đồng nhất trên cơ sở quy chế 
công dân, đã đem lại một khoảng trống 
cho các giải pháp thị trường, trong khi 
mục tiêu của chính sách xã hội chỉ 
hướng tới dân số cần sự trợ giúp. Một 
dạng thể chế chung và được thể hiện 
trước hết bằng các chương trình bảo 
hiểm xã hội với sự quản lý ba bên bởi 
chính phủ và các đối tác xã hội, với các 
chương trình dành riêng cho các nghề 
nghiệp khác nhau. Mặc dù sự quan tâm 
có tăng lên đối với các nhà nước phúc 
lợi đang nổi lên ở Đông Á và những nơi 
khác, việc nghiên cứu về các nhà nước 
phúc lợi ở các nước thu nhập trung bình 
và thấp thường thiếu cách nhìn hệ thống 
mang tính thể chế và so sánh, cũng như 
các dữ liệu đầy đủ về các chỉ số so sánh 
nhằm giúp có được sự phân tích tương 
xứng về nguyên nhân và hệ quả của việc 
phát triển chính sách xã hội ở những 
nước này. 
2. Sự mở rộng quyền xã hội ở Đông Á 
Các thể chế bảo hiểm xã hội ở các 
nước công nghiệp phương Tây bắt 
nguồn từ các cuộc đấu tranh chính trị 
sau cách mạng công nghiệp trong suốt 
những năm cuối thế kỷ XIX. Ở Đông 
Á, quy định pháp luật về bảo hiểm xã 
hội đã được đưa ra ở các giai đoạn 
khác nhau và ở các nước khác nhau, 
nhưng đó là một quá trình có lịch sử 
lâu dài trong khu vực. Việc đưa ra 
pháp luật về bảo hiểm xã hội của các 
nhà nước phúc lợi ở các quốc gia công 
nghiệp hóa là kết quả sự can thiệp 
khác nhau vào các cuộc xung đột phân 
phối xã hội giữa người sử dụng lao 
động và người lao động trên thị trường 
lao động. Một tổng quan ngắn cho thấy 
rằng, bảo hiểm tai nạn lao động thường 
là dạng chương trình bảo hiểm xã hội 
đầu tiên được các nước Đông Á thực 
hiện, như Indonesia đã thực hiện bảo 
vệ các công nhân bị thương tật từ 
những năm 1920. Sau bảo hiểm tai nạn 
lao động, các phúc lợi ốm đau và phúc 
lợi người cao tuổi thường được đưa ra 
cùng nhau, điều này cho thấy pháp chế 
về bảo hiểm xã hội được đi kèm với 
những thay đổi rộng hơn về cấu trúc 
chính trị và xã hội ở các nước đó. Mặt 
khác, các phúc lợi thất nghiệp là một 
hiện tượng mới diễn ra trong khu vực, 
được đưa ra từ giữa những năm 1980, 
ở Hàn Quốc và Đài Loan, các phúc lợi 
thất nghiệp được đưa ra trong thời kỳ 
hậu khủng hoảng kinh tế những năm 
1990. Bất chấp những tiến triển trong 
thời gian gần đây, một số quốc gia 
trong khu vực vẫn chưa thực hiện các 
quyền được pháp luật hóa nhằm bảo vệ 
thu nhập cho công nhân bị thất nghiệp. 
Quyền xã hội ở Việt Nam và Đông Á ... 
 65
Bảng 1: Năm thực hiện pháp chế về bảo hiểm xã hội đầu tiên 
Việt 
Nam 
Hàn 
Quốc Thái Lan Đài Loan Philippines Indonesia 
Thụy 
Điển 
Hưu trí 1961 1973 1991 1950 1954 1977 1914 
Tai nạn lao động 1947 1953 1974 1929 1975 1951 1901 
Ốm đau 1961 no 1991 1950 1954 no 1931 
Thất nghiệp 2007 1995 2004 1999 no no 1935 
 Nguồn: Cơ quan bảo hiểm xã hội (2008). 
Ở nhiều nước, những người đầu tiên 
được hưởng phúc lợi từ chính sách bảo 
hiểm xã hội là những nhân viên nhà nước 
và những người làm việc trong các ngành 
có tính chiến lược. Sau đó, bảo hiểm xã 
hội được mở rộng tới các thành phần 
khác trong dân chúng, trên cơ sở bắt 
buộc hoặc tự nguyện. Thông thường, tỷ 
lệ che phủ đã được mở rộng tới các 
doanh nghiệp tư nhân có số công nhân 
lớn trước khi vươn tới các doanh nghiệp 
có số công nhân ít hơn và những người 
tự doanh. Những người khó tiếp cận bảo 
hiểm nhất và những người vẫn chưa 
được bảo vệ đầy đủ ở nhiều quốc gia là 
những người có việc làm phi chính thức 
và những người ở nông thôn. Bảo hiểm 
xã hội Việt Nam được khởi nguồn từ quy 
định đưa ra năm 1961 trao cho tất cả các 
nhân viên trong khu vực nhà nước quyền 
được hưởng các phúc lợi ốm đau, lương 
hưu và tai nạn lao động. Trước đó, Việt 
Nam chỉ có các quy định buộc người sử 
dụng lao động chịu trách nhiệm đối với 
công nhân trong trường hợp xảy ra tai 
nạn lao động ban hành năm 1947. Sau 
cải cách nền kinh tế mang định hướng thị 
trường vào những năm 1990 và sự tăng 
trưởng liên tục của khu vực tư nhân, 
pháp luật về bảo hiểm xã hội đã được cải 
cách và mở rộng tới công nhân trong lĩnh 
vực tư nhân vào năm 1995. 
Độ che phủ chính thức của các 
chương trình bảo hiểm xã hội là một đặc 
điểm mang tính thể chế quan trọng, điều 
chỉnh sự mở rộng của các quyền xã hội 
cho dân chúng qua các quy định về 
người được hưởng trong các chương 
trình đó. Ở đây, chúng ta có thể phân 
biệt các chương trình bao gồm toàn bộ 
lực lượng lao động trong một chương 
trình đơn nhất, các hệ thống với các 
chương trình riêng rẽ bao trùm các phân 
khúc khác nhau của lực lượng lao động, 
hoặc các chương trình mục tiêu chỉ 
hướng đến các nhóm gặp rủi ro như 
nhóm nghèo. Bên cạnh đó, độ che phủ 
hiệu quả của bảo hiểm xã hội cũng là 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 66
một hệ quả của quá trình tác động qua 
lại giữa đặc điểm thể chế và cấu trúc của 
thị trường lao động. Có được một hợp 
đồng làm việc chính thức thường là một 
tiền đề cho việc được hưởng bảo hiểm 
xã hội bắt buộc trong khu vực; điều đó 
khiến cho những người tự doanh trong 
lực lượng lao động chiếm tỷ lệ lớn trong 
số công nhân còn đứng bên ngoài sự che 
phủ hiệu quả. Do vậy, xem xét sự phát 
triển của tự doanh trong tương quan với 
hình thức việc làm phụ thuộc trở nên 
quan trọng nhằm hiểu được các điều 
kiện mở rộng độ che phủ. 
Biểu đồ 1: Tỷ lệ tự doanh trong tổng lực lượng lao động (đơn vị tính: %) 
Nguồn: ILO/LABORSTA. 
Các nước Đông Á được xem xét ở đây 
có xu hướng giảm hình thức làm việc tự 
doanh trong tổng lực lượng lao động, đó 
là cùng với xu hướng chung ở các nước 
đang tiến hành công nghiệp hóa. Tuy 
nhiên, từ quan điểm toàn cầu, xu hướng 
này khác xa với sự gia tăng nhanh chóng 
của hình thức tự doanh ở nhiều nước 
Trung và Đông Âu từ sau sự sụp đổ của 
khối Đông Âu. Các quá trình phi chính 
thức hóa thị trường lao động cũng có thể 
được thấy ở nhiều khu vực khác, ví dụ 
như làn sóng tư nhân hóa và phi luật 
pháp hóa thị trường lao động ở Mỹ La 
tinh. Ở Thụy Điển, tỷ lệ tự doanh hầu 
như ổn định trong suốt 30 năm, sau khi 
giảm tới mức thấp như hiện nay. Tự 
doanh ở Thụy Điển nhìn chung vẫn tham 
gia bảo hiểm xã hội, nhưng với những 
điều kiện có phần khác với công nhân. 
Quyền xã hội ở Việt Nam và Đông Á ... 
 67
Bảng 2: Tỷ lệ che phủ của các chương trình bảo hiểm xã hội năm 2008 
(% trong lực lượng lao động) 
Việt 
Nam 
Hàn 
Quốc 
Đài 
Loan 
Thái Lan Philippines Indonesia* 
Thụy 
Điển 
Hưu trí 17 77 79 23 26 11 100 
Ốm đau 17 no 81 23 26 no 100 
Tai nạn lao động 17 55 81 22 26 11 100 
Thất nghiệp 11 38 51 25 no no 96 
Nguồn: SPEAD, SPIN. *Số liệu liên quan đến năm 2001. 
Bảng 2 cho thấy rằng, các nước có tỷ 
lệ tự doanh trong tổng lực lượng lao 
động cao hơn có tỷ lệ che phủ của bảo 
hiểm xã hội thấp hơn. Tỷ lệ che phủ của 
bảo hiểm xã hội ở Việt Nam là 17% vào 
năm 2008. Phần lớn những người tham 
gia bảo hiểm làm việc trong khu vực 
nhà nước. Theo góc độ này, Việt Nam 
có một thách thức lớn trong việc tìm ra 
phương cách tốt nhất để tiếp cận khu 
vực tư nhân, cũng như tiếp cận những 
người lao động tự cung tự cấp và ở nông 
thôn. Bảo hiểm thất nghiệp nhìn chung 
có mức che phủ thấp hơn so với các 
chương trình bảo hiểm xã hội khác một 
phần là do nó tương đối mới và được 
thực hiện thận trọng, đồng thời cũng là 
do sự che phủ chính thức giới hạn hơn, 
ví dụ như bỏ qua các doanh nghiệp có ít 
nhân viên. 
3. Chất lượng của quyền xã hội 
trong khu vực 
Sự hào phóng của các phúc lợi được 
đánh giá bằng sự so sánh quyền được 
hưởng của một công nhân sản xuất bình 
thường khi người này mất thu nhập từ 
công việc do ốm đau, thất nghiệp, tai nạn 
lao động hay tuổi già. Việc tính toán 
lương hưu phản ánh mức chi trả hàng 
năm trong năm đầu nghỉ hưu, trong khi 
đối với ba dạng phúc lợi khác không có 
trong công việc được trả lương được giả 
định kéo dài sáu tháng. Các phúc lợi 
được gắn với mức lương trung bình trong 
ngành sản xuất nhằm tính toán tỷ lệ thay 
thế của các phúc lợi bảo hiểm xã hội. 
Cách tính này sẽ cho phép nắm được 
mức độ mà một công nhân sản xuất bình 
thường có thể dựa vào mức lương thị 
trường của mình để duy trì cuộc sống và 
do vậy có thể dùng như một chỉ số của 
quyền xã hội do luật pháp quốc gia quy 
định. Tỷ lệ thay thế ở đây liên quan đến 
mức thu nhập trước thuế. 
3.1. Lương hưu 
Một số yếu tố ảnh hưởng đến mức 
phúc lợi nhận được khi nghỉ hưu ở các 
hệ thống có sự khác nhau. Về cơ bản, có 
thể phân biệt giữa hai nguyên tắc chính: 
nguyên tắc thứ nhất là số lượng phúc lợi 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 68
được xác định bằng mức lương nhận 
được trước khi nghỉ hưu (phúc lợi được 
xác định); nguyên tắc thứ hai là phúc lợi 
được quyết định bằng việc đóng góp 
cộng với lãi suất tích lũy được trên số đã 
đóng góp (đóng góp được xác định). 
Trong số các nước Đông Á, Việt Nam, 
Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan và 
Philippines vận hành các chương trình 
phúc lợi được xác định, trong khi 
Indonesia trả phúc lợi theo nguyên tắc 
đóng góp được xác định. Một nguyên 
tắc nữa có liên quan đến mục tiêu tính 
toán phúc lợi là mức thu nhập trọn đời 
và mức thu nhập trung bình chỉ trong 
những năm làm việc cuối cùng trước khi 
nghỉ hưu, mức đó vốn rất khác biệt giữa 
các vùng. Việt Nam đã lựa chọn mức 
thu nhập trọn đời trong tính toán phúc 
lợi cho công nhân trong lĩnh vực tư 
nhân, trong khi phúc lợi cho các nhân 
viên nhà nước lại được quyết định bằng 
mức lương trung bình trong 5 năm làm 
việc cuối cùng trước khi nghỉ hưu. Một 
đặc điểm khác đã chia tách các chương 
trình hưu trí ở nhiều nước Châu Á khỏi 
các chương trình tương tự ở các nhà 
nước phúc lợi công nghiệp hóa là trả 
lương hưu một cục tại thời điểm nghỉ 
hưu thay vì trả thường xuyên từng đợt 
hàng tháng. Ở Việt Nam, lương hưu 
thường được trả một cục nếu người 
tham gia bảo hiểm ít hơn 20 năm và có 
thể lựa chọn trả theo hàng tháng nếu 
tham gia bảo hiểm trên 20 năm. 
Tất cả các nước trừ Indonesia đã đưa 
ra hệ thống bảo hiểm xã hội với các 
khoản trợ cấp theo thu nhập cho công 
nhân đã tham gia bảo hiểm. Ở các nước 
quyết định mức lương hưu theo mức 
lương trước đó và thâm niên đóng góp, 
tỷ lệ thay thế thu nhập đối với một công 
nhân bình thường nghỉ hưu vào năm 
2008 sẽ nằm trong khoảng 24% ở Hàn 
Quốc, đến 64% ở Philipines. Ở Indonesia, 
bảo trợ xã hội cho người cao tuổi được 
cung cấp qua hệ thống quỹ do người sử 
dụng lao động và người lao động đóng 
góp vào một tài khoản có thể sử dụng để 
cung cấp thu nhập khi nghỉ hưu. Vì công 
nhân trong khu vực tư nhân ở Việt Nam 
đã không được tham gia bảo hiểm cho 
đến tận năm 1995 nên họ không có khả 
năng tích lũy đủ 20 năm đóng bảo hiểm 
để được nhận lương hưu vào năm 2008. 
Hệ thống lương hưu của Thái Lan đã 
không thể đạt đến giai đoạn người nghỉ 
hưu có thể nhận lương hưu vào năm 
2008 nên những công nhân đầu tiên có 
thể nhận lương hưu là vào năm 2013. 
Hệ thống lương hưu của cả Hàn Quốc 
và Indonesia cũng đều không đạt đến sự 
chín muồi vào năm 2008, do đó làm giới 
hạn mức độ chi trả cho những công 
nhân nghỉ hưu trong năm đó. Trong biểu 
đồ 1, các cột mờ chỉ tỷ lệ thay thế của 
một công nhân nghỉ hưu sau 35 năm 
đóng bảo hiểm, căn cứ vào quy định 
hiện hành ở mỗi nước(3). Hệ thống lương 
(3) Tỷ lệ thay thế thu nhập theo lý thuyết (phần 
mờ) thể hiện cho Việt Nam được tính toán dựa 
trên mức lương cuối cùng (áp dụng cho các 
nhân viên nhà nước, những người hầu hết tham 
gia bảo hiểm). 
Quyền xã hội ở Việt Nam và Đông Á ... 
 69
hưu ở Thụy Điển được cải cách vào 
những năm 1990 và hiện nay kết hợp cả 
hình thức đóng góp được xác định theo 
nguyên tắc đóng - hưởng (pay as you 
go) và hệ thống tài khoản tài chính do tư 
nhân quản lý, được bổ sung bằng một 
loại lương hưu tối thiểu cho những 
người đóng bảo hiểm chưa đủ. 
Biểu đồ 2: Tỷ lệ thay thế của lương hưu trong năm 2008/2010 
Nguồn: SPEAD, SPIN. 
Tổng quan này cho thấy rằng, lương 
hưu đang tăng lên trong khu vực, xét 
theo cả mức độ phúc lợi chi trả và sự 
công nhận phúc lợi cho người cao tuổi, 
do sự chín muồi của hệ thống lương 
hưu. Một đặc điểm chung, phản ánh 
nguồn gốc của hệ thống bảo hiểm xã 
hội, là sự tồn tại của các chương trình 
riêng rẽ cho các nhóm công nhân nhất 
định, đặc biệt là cho các công chức, 
trao cho những nhóm này những điều 
kiện hưu trí ưu tiên. Sự tổ chức như 
vậy ở các nước công nghiệp đã được 
gắn với mức độ tái phân phối thu nhập 
tương đối thấp hơn so với các hệ thống 
đơn nhất với sự che phủ mang tính 
toàn dân. 
3.2. Trợ cấp ốm đau bằng tiền mặt 
Các chương trình chi trả phần thu 
nhập bị mất của công nhân trong trường 
hợp ốm đau phổ biến trong khu vực 
nhưng không phải mọi quốc gia đều có. 
Trong sáu quốc gia được so sánh, Hàn 
Quốc và Indonesia không có quy định 
nào về việc hỗ trợ thu nhập trong 
trường hợp người lao động mất khả 
năng làm việc tạm thời do ốm đau. 
Nhìn chung, quá trình làm việc là tiêu 
chí để nhận được trợ cấp. Thời gian 
nhận trợ cấp cũng là một đặc điểm 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 70
mang tính thể chế có sự khác nhau giữa 
các quốc gia. Ở Việt Nam, thời gian 
nhận trợ cấp cũng phụ thuộc vào thời 
gian đã tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm 
xã hội cũng có thể được gắn với thời 
gian nhận trợ cấp ốm đau mà người lao 
động nhận được từ người sử dụng lao 
động. Thái Lan có quy định rằng, người 
sử dụng lao động phải có nghĩa vụ trả 
lương đầy đủ trong 30 ngày nghỉ ốm và 
sau đó trợ cấp bảo hiểm xã hội sẽ trả 
tiếp trong trường hợp nghỉ dài hơn. 
Biểu đồ 3: Tỷ lệ thay thế thu nhập của trợ cấp ốm đau bằng tiền mặt 
năm 2008/2010 
Nguồn: SPEAD, SPIN. 
Ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines, 
công nhân được quyền nhận 44% đến 
60% thu nhập trong sáu tháng nghỉ 
ốm. Trong khi tại Việt Nam, tỷ lệ thay 
thế thu nhập chính thức khi nghỉ ốm 
là 75%, thu nhập trong thời kỳ nghỉ 
ốm dài hơn nhưng lại chịu ảnh hưởng 
của các điều kiện gắn liền với thời 
gian nhận trợ cấp nghỉ ốm bằng tiền 
mặt, với giới hạn chỉ đảm bảo 90 ngày 
cho các công nhân có thời gian tham 
gia bảo hiểm ngắn hơn. Thụy Điển kết 
hợp giữa trợ cấp theo thu nhập vào 
khoảng 80% mức lương, ngang với 
mức trần trợ cấp đồng nhất cho những 
người kết nối lỏng lẻo với thị trường 
lao động. 
3.3. Bảo hiểm tai nạn lao động 
Như chúng ta đã thấy, pháp luật bảo 
vệ thu thập của các công nhân bị tai nạn 
lao động thường là dạng bảo hiểm xã 
hội đầu tiên được các nước đưa ra. Nó 
Quyền xã hội ở Việt Nam và Đông Á ... 
 71
cũng có xu hướng trở thành chương 
trình hào phóng nhất xét theo mức độ 
thay thế thu nhập, thời gian và các điều 
kiện nhận trợ cấp; không có nước nào 
trong số sáu nước Đông Á có bất cứ đòi 
hỏi sự đóng góp nào trước đó để nhận 
trợ cấp và đây cũng là bức tranh chung 
ở hầu hết các nước OECD. 
Biểu đồ 4: Tỷ lệ thay thế thu nhập của bảo hiểm tai nạn lao động 
năm 2008/2010 
Nguồn: SPEAD, SPIN. 
Trong khi bảo hiểm tai nạn lao động 
ở Việt Nam bù đắp hoàn toàn mức 
lương của người công nhân bị tai nạn 
cho đến khi hồi phục, Hàn Quốc, Đài 
Loan và Thái Lan bù đắp khoảng 60-
70% thu nhập trước đó của người lao 
động và kéo dài từ 1 đến 2 năm. Ở Thụy 
Điển, các nguyên tắc trợ cấp trong 
trường hợp tai nạn lao động được áp 
dụng tương tự như đối với trợ cấp ốm 
đau bằng tiền mặt, có nghĩa tỷ lệ thay 
thế thu nhập đối với một công nhân sản 
xuất bình thường thấp hơn 80%. 
3.4. Bảo hiểm thất nghiệp 
Như đã nêu ở trên, các chương trình 
cung cấp an sinh thu nhập cho công 
nhân trong thời kỳ thất nghiệp là một 
hiện tượng tương đối mới ở các nước 
Đông Á. Ở Việt Nam, bảo hiểm thất 
nghiệp mới chỉ có hiệu lực từ năm 2009. 
Nhiều nước Đông Á, như Indonesia và 
Philippines, vẫn chưa có chương trình 
bảo hiểm thất nghiệp quốc gia, mà dựa 
vào các hình thức an sinh thu nhập phi 
chính thức, hoặc trong một số trường 
hợp là trợ giúp xã hội. Trong các nước 
còn lại, tỷ lệ thay thế thu nhập chính 
thức nằm trong khoảng 50% ở Hàn 
Quốc và Thái Lan, tới 60% ở Việt Nam 
và Đài Loan. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 72
Biểu đồ 5: Tỷ lệ thay thế thu nhập của trợ cấp thất nghiệp năm 2008/2010 
Nguồn: SPEAD, SPIN. 
Ở Việt Nam và Hàn Quốc, thời gian 
nhận trợ cấp phụ thuộc vào thời gian 
làm việc trước khi thất nghiệp, điều này 
giải thích cho tỷ lệ thay thế thu nhập 
thấp trong thời kỳ sáu tháng thất nghiệp 
ở Hàn Quốc. Ở cả Đài Loan và Thái 
Lan, thời gian nhận trợ cấp thất nghiệp 
là 6 tháng đối với tất cả công nhân đủ 
điều kiện nhận trợ cấp. Thụy Điển có 
một hệ thống bảo hiểm thất nghiệp tự 
nguyện. Hệ thống đó có sự trợ cấp của 
nhà nước đối với những người trong lực 
lượng lao động lựa chọn đóng bảo hiểm 
cho bất cứ quỹ bảo hiểm thất nghiệp 
nào, được bổ sung với một chương trình 
toàn dân cung cấp trợ cấp cơ bản cho tất 
cả những người tham gia lực lượng lao 
động đáp ứng được các yêu cầu làm 
việc. Các quỹ này thường do các liên 
đoàn lao động quản lý nhưng mức trợ 
cấp được luật pháp quy định. Tỷ lệ thay 
thế thu nhập đối với bảo hiểm thất 
nghiệp ở Thụy Điển vào khoảng 65%. 
4. Nghiên cứu trao đổi 
Các nước Đông Á trong nghiên cứu 
này tuy thường được xem là các nước 
đang phát triển, nhưng có những kinh 
nghiệm sâu sắc về bảo hiểm xã hội. 
Chương trình đầu tiên được xây dựng 
thường là bảo hiểm tai nạn lao động, 
tiếp theo sau là trợ cấp ốm đau và hưu 
trí, gần đây nhất là bảo hiểm thất 
nghiệp. Cho dù tỷ lệ che phủ và mức độ 
trợ cấp khác nhau nhiều nhưng tất cả các 
nước này đều có một số chương trình 
bảo vệ thu nhập trong trường hợp mất 
Quyền xã hội ở Việt Nam và Đông Á ... 
 73
thu nhập từ công việc. Tuy nhiên, những 
chương trình này được tổ chức khác 
nhau ở những nước khác nhau, trường 
hợp Indonesia là ví dụ khác biệt so với 
các nước còn lại khi nước này dựa vào 
hệ thống các quỹ tiết kiệm như công cụ 
cung cấp sự bảo vệ chính thức cho 
người lao động. Các chương trình này 
nhìn chung được thành lập nhằm bảo vệ 
các nhóm công nhân cụ thể, như công 
chức. Sự tách rời tổ chức mang tính thể 
chế còn tồn tại ở hầu hết các nước đang 
làm biến dạng tham vọng thực hiện tính 
toàn dân của các chương trình này. Vì 
các chương trình đã được mở rộng tới 
khu vực tư nhân, bao gồm công nhân 
của các doanh nghiệp nhỏ, cho nên 
quyền xã hội đối với mưu sinh được bảo 
đảm đã trở thành yếu tố gắn kết xã hội 
đang ngày càng tăng lên, bất kể năng lực 
tham gia vào các hoạt động mang lại lợi 
ích nào. Tuy nhiên, nhiều nước vẫn 
thiếu sự che phủ hiệu quả của các 
chương trình bảo hiểm do những hạn 
chế vẫn còn tồn tại trong việc che phủ 
chính thức, do sự tương đối non trẻ của 
các hệ thống này, đặc biệt là lương hưu, 
cũng như do những khó khăn trong việc 
đáp ứng các điều kiện gắn liền với các 
khoản trợ cấp. 
Biểu đồ 6: Sự đóng góp tương đối của các chương trình bảo hiểm xã hội 
đối với tỷ lệ thay thế thu nhập trung bình vào năm 2008 
Nguồn: SPEAD, SPIN. 
Đài Loan cho thấy mức hỗ trợ thu 
nhập trung bình cao nhất và Hàn Quốc 
có mức thấp nhất, phần lớn là do thiếu 
các trợ cấp ốm đau bằng tiền được pháp 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 74
chế hóa ở Hàn Quốc và hệ thống lương 
hưu mới ở giai đoạn đầu của quá trình 
hoàn thiện. Đài Loan cho thấy sự cung 
cấp tương đối hào phóng xét trong cả 4 
khoản được xem xét. Mức trung bình ở 
Việt Nam đã giảm xuống do thiếu 
quyền nhận lương hưu của những người 
nghỉ hưu hiện tại đã từng làm việc 
trong khu vực tư nhân và thời gian 
nhận trợ cấp ốm đau còn ngắn. Đối với 
Thụy Điển, mặc dù tỷ lệ hỗ trợ thu 
nhập đang giảm xuống trong thập kỷ 
qua, nhưng tỷ lệ đó vẫn cao hơn mức 
trung bình ở các nước Đông Á cũng 
như Châu Âu, với tỷ lệ thay thế thu 
nhập bình quân ở mức 67%. Như đã lưu 
ý ở trên, mặc dù quan trọng đối với 
việc giảm nghèo và bất bình đẳng, 
nhưng mức độ trợ cấp có thể là một 
thách thức ít nghiêm trọng hơn đối với 
Việt Nam so với việc mở rộng độ che 
phủ của bảo trợ xã hội tới các bộ phận 
dân chúng vẫn chưa được hưởng cũng 
như so với việc thu hẹp trợ cấp cho các 
nhóm dân cư. Người dân ở khắp Việt 
Nam và Đông Á tự thấy bị rơi vào các 
hoàn cảnh rất khác nhau khi tìm cách 
duy trì mưu sinh. Cả trợ cấp theo thu 
nhập đối với những người tham gia thị 
trường lao động cũng như những phúc 
lợi mang tính toàn dân, bao gồm lương 
hưu và trợ cấp trẻ em, được trao trên cơ 
sở quyền công dân phải được xem như 
những thành tố quan trọng của một 
chiến lược tương lai hướng đến xây 
dựng các hệ thống bảo trợ xã hội toàn 
diện trong khu vực. 
Nghiên cứu khu vực Đông Á rất 
quan trọng trong việc tìm hiểu quá trình 
dẫn dắt thay đổi chính sách xã hội trong 
kỷ nguyên toàn cầu hóa mạnh mẽ. 
Trong ngữ cảnh này, các chỉ số mang 
tính thể chế có thể củng cố những hiểu 
biết của chúng ta về các chính sách xã 
hội đóng góp vào việc phân phối thịnh 
vượng và cơ hội trong khu vực, cũng 
như thúc đẩy sự phát triển kinh tế có 
tính bền vững về mặt xã hội. Bài tổng 
quan số liệu ban đầu về các cơ chế bảo 
hiểm xã hội ở 6 nước Đông Á chỉ ra 
những lợi ích của việc tiếp tục phát 
triển các chỉ số có thể tính toán sự mở 
rộng và chất lượng của các quyền xã 
hội trong khu vực cũng như toàn cầu. 
Tuy nhiên, nhiệm vụ này đòi hỏi một 
nỗ lực liên tục nhằm tập hợp các số liệu 
phù hợp về cấu trúc của các thể chế bảo 
hiểm xã hội nhằm xây dựng các phân 
tích chính xác nhất có thể. Các chỉ số 
về bối cảnh trong một khoảng thời gian 
dài, sẽ củng cố thêm nữa năng lực phân 
tích của chúng ta về các nguyên nhân 
đằng sau đó cũng như những hệ quả 
của các chính sách hiện tại. Hình thức 
phân tích này có thể chứng minh tầm 
quan trọng to lớn đối với việc tìm hiểu 
vai trò của chính sách xã hội trong các 
cuộc thảo luận về phát triển kinh tế có 
sự gắn kết xã hội và giảm nghèo trong 
tương lai. 
Quyền xã hội ở Việt Nam và Đông Á ... 
 75

File đính kèm:

  • pdfquyen_xa_hoi_o_viet_nam_va_dong_a_phan_tich_so_sanh_the_che.pdf