Social Mobility of High-Quality S&T Human Resources in universities of Vietnam (Case studies: Vietnam National University, Hanoi and Vietnam National University, Ho Chi Minh City)
Abstract: In the context of all countries are moving towards a dynamic and developed economy, it
would be impossible not to mention the "labor factor". Obviously, this is an influential factor
because the higher quality of labor resources will result in a more conveinent and easier economic
development process and vice versa. However, the social mobilization of labor resources,
especially high-quality S&T human resources, has become a tough reality. This phenomenon has
become more and more popular and complicated within organizations and countries. There are
many manifestations of the social mobility phenomenon of high quality S&T human resources, but
in this article, the authors focus on two social mobility flows which are social mobility with
migration, also known as "brain drain" and social mobility without migration – "internal brain
drain". The research data of the article shows the current status of social mobility of high-quality
S&T human resources in two national universities of Vietnam: Vietnam National University,
Hanoi and Vietnam National University, Ho Chi Minh City in order to recognize the highlights
and trends of this phenomenon. From that, the authors set out a number of policy suggestions to
minimize the negative impacts from social mobility and to improve the efficiency of using highquality S&T human resources in Vietnam universities today.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Social Mobility of High-Quality S&T Human Resources in universities of Vietnam (Case studies: Vietnam National University, Hanoi and Vietnam National University, Ho Chi Minh City)
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 1 Review article/Original article Social Mobility of High-Quality S&T Human Resources in universities of Vietnam (Case studies: Vietnam National University, Hanoi and Vietnam National University, Ho Chi Minh City) Dang Kim Khanh Ly, Nguyen Thi Ngoc Anh, Nguyen Thu Trang VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam Received 20 March 2019 Accepted 22 March 2019 Abstract: In the context of all countries are moving towards a dynamic and developed economy, it would be impossible not to mention the "labor factor". Obviously, this is an influential factor because the higher quality of labor resources will result in a more conveinent and easier economic development process and vice versa. However, the social mobilization of labor resources, especially high-quality S&T human resources, has become a tough reality. This phenomenon has become more and more popular and complicated within organizations and countries. There are many manifestations of the social mobility phenomenon of high quality S&T human resources, but in this article, the authors focus on two social mobility flows which are social mobility with migration, also known as "brain drain" and social mobility without migration – "internal brain drain". The research data of the article shows the current status of social mobility of high-quality S&T human resources in two national universities of Vietnam: Vietnam National University, Hanoi and Vietnam National University, Ho Chi Minh City in order to recognize the highlights and trends of this phenomenon. From that, the authors set out a number of policy suggestions to minimize the negative impacts from social mobility and to improve the efficiency of using high- quality S&T human resources in Vietnam universities today. Keywords: Social mobility, brain drain, high-quality S&T human resources . __________ Corresponding author. E-mail address:dkkly79@yahoo.com https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4173 VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 35, No. 1 (2019) 16-20 1 Di động xã hội nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao trong các trường đại học (Nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) Đặng Kim Khánh Ly1, Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Thu Trang Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 29 tháng 11 năm 2018 Chỉnh sửa ngày 03 tháng 12 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 04 tháng 12 năm 2018 Tóm tắt: Hiện nay, khi mà các quốc gia trên thế giới đều đang hướng đến một nền kinh tế năng động và phát triển thì không thể không nói đến yếu tố “nguồn lao động”. Rõ ràng, đây là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn vì khi nguồn lao động có chất lượng cao thì quá trình phát triển kinh tế sẽ thuận lợi, dễ dàng hơn và ngược lại. Tuy nhiên, một thực tế đang trở thành vấn đề đáng quan tâm hiện nay đó chính là quá trình di động xã hội của các nguồn lao động, trong đó có nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao. Hiện tượng này trong các tổ chức, các quốc gia ngày càng diễn ra phổ biến và phức tạp hơn. Có nhiều biểu hiện của hiện tượng di động xã hội của nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao nhưng trong bài viết này sẽ tập trung vào hai luồng di động xã hội là di động xã hội kèm di cư hay còn được gọi là “chảy chất xám” và luồng di động xã hội không kèm di cư hay còn gọi là “chảy chất xám tại chỗ”. Số liệu nghiên cứu của bài viết đã thể hiện hiện trạng di động xã hội nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao tại hai đơn vị đào tạo lớn của Việt Nam là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh để nhìn nhận những điểm nhấn và xu hướng của hiện tượng này. Từ đó, nghiên cứu đề ra một số định hướng khuyến nghị chính sách để giảm các tác động âm tính từ hiện tượng di động xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao tại các trường đại học tại Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Di động xã hội, chảy ch24ptất xám, nhân lực KH&CN chất lượng cao. 1. Đặt vấn đề Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra hết sức mạnh mẽ gắn liền với những đột phá về công nghệ, kết nối Internet, thực tế ảo, công nghệ cảm biến, v.v. Cuộc cách __________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ Email: dkkly79@yahoo.com https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4173 mạng này đã, đang và sẽ đem lại nhiều cơ hội để phát triển và tăng trưởng cho các ngành kinh tế bao gồm cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Trong những thập niên trước đây, khi nói về Việt Nam, chúng ta vẫn tự hào khi có thế mạnh về lực lượng lao động đông đảo (lực lượng lao động trẻ) và giá nhân công rẻ nhưng bây giờ, đó lại là những “trở lực” trên con đường Việt Nam tham gia vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Bởi trong thời đại này, chúng D.K.K. Ly / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 2 ta không còn nói về chi phí lao động nữa mà phải bàn về “chi phí nhân tài”1. Và “nhân tài” luôn là vấn đề cần quan tâm đầu tư và lo ngại của các quốc gia khi mà luồng chảy chất xám di chuyển ngày càng diễn ra với cường độ nhanh và mạnh hơn không chỉ giữa các tổ chức mà còn giữa các quốc gia. Chính việc nhìn nhận giá trị, vai trò của “ba chân kiềng” giữa nhân lực khoa học và công nghệ (KH&CN) chất lượng cao, giáo dục đào tạo và KH&CN, ngày 04/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong đó chú trọng vào giải pháp “thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới” nhằm “biến thách thức dân số cùng giá trị dân số vàng thành lợi thế trong hội nhập và phân công lao động quốc tế” [1]. Trong bài viết này, nhóm nghiên cứu sử dụng khái niệm “nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao” là để chỉ những người có học vị từ thạc sĩ trở lên. Còn khái niệm “di động xã hội của nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao” được hiểu là sự dịch chuyển về vị trí xã hội, vị thế xã hội của cá nhân hay một nhóm nhân lực KH&CN chất lượng cao trong hệ thống phân tầng xã hội trong khoa học; sự chuyển dịch từ một địa vị này đến một địa vị khác trong cơ cấu của KH&CN [2]. Nhìn chung, di động xã hội nguồn nhân lực KH&CN có nhiều dạng thức khác nhau nhưng trong bài viết này sẽ đề cập đến loại hình di động xã hội tương đối phổ biến của nhân lực KH&CN là di động xã hội kèm di cư và di động xã hội không kèm di cư. 2. Giới thiệu mẫu khảo sát Số liệu khảo sát của bài viết được sử dụng từ nguồn số liệu điều tra của Đề tài nghiên cứu trọng điểm cấp Nhà nước KX01.01/16-20 về __________ 1Dẫn theo nghiep-40-chung-ta-khong-con-noi-ve-chi-phi-lao- dong-ma-phai-ban-ve-chi-phi-nhan-tai- 20180807161328998.chn “Chính sách quản lý di động xã hội đối với nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”. Để thực hiện bài viết, nhóm nghiên cứu đã trích và xử lý số liệu điều tra xã hội học tại 02 tổ chức đào tạo lớn của Việt Nam là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là hai Đại học có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái khởi nghiệp và hệ thống đổi mới quốc gia hiện nay. Hai đơn vị này có các chủ thể nghiên cứu mạnh, là nguồn sản xuất tri thức và công nghệ cho xã hội, cung cấp ý tưởng sáng tạo dồi dào cho các dự án khởi nghiệp, đóng góp cho sự gia tăng tài sản trí tuệ và năng lực trí tuệ của các doanh nghiệp. Số liệu điều tra tại 02 Đại học trên được thực hiện với hai loại mẫu phiếu dành cho tổ chức và cá nhân với cơ cấu mẫu gồm 19 phiếu dành cho tổ chức của hai trường đại học và các đơn vị trực thuộc (trong đó Đại học Quốc gia Hà Nội là 10 phiếu, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là 09 phiếu) và 613 phiếu cá nhân dành cho các cán bộ làm việc tại hai đơn vị (trong đó Đại học Quốc gia Hà Nội là 261 phiếu, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là 352 phiếu). Ngoài ra, bài viết trích kết quả phỏng vấn sâu của 09 cá nhân là các cán bộ đang giảng dạy và nghiên cứu tại hai Đại học. Các kết quả phỏng vấn sâu là minh chứng cho việc phân tích, nhận định của nhóm tác giả về thực trạng di động xã hội nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao tại hai đơn vị khảo sát. 3. Thực trạng di động xã hội nguồn nhân lực Khoa học và Công nghệ chất lượng cao tại Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 3.1. Di động kèm di cư của nhân lực KH&CN chất lượng cao Khái niệm “Chảy chất xám” (tiếng Anh là Brain drain) được dùng để chỉ các nhà khoa học di cư từ nước này sang nước khác, từ khu vực này sang khu vực khác mà không có ý định quay lại [3]. Trong nghiên cứu của Baruffaldi D.K.K. Ly / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 3 và Landoni (2012) [4] đã nhận định về “cuộc chiến chất xám” (brain war) giữa các quốc gia nhằm thu hút các nhà khoa học nước ngoài ngày càng trở nên khốc liệt hơn với việc bùng nổ của công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đã khiến thế giới “phẳng” hơn. Chính điều này khiến các quốc gia luôn tìm các cách thức để tạo luồng “hút chất xám” bên ngoài nhằm “tăng thu chất xám” (brain gain). Đồng thời, các quốc gia cũng xây dựng các chiến lược để giữ chất xám, hạn chế các luồng chảy chất xám ra bên ngoài. Tuy nhiên hiện nay, vấn đề này chưa được xử lý triệt để và thậm chí ngày càng lan rộng và trở nên hệ trọng hơn, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Đối với các trường đại học – nơi tập trung nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao thì hiện tượng di động xã hội kèm di cư được biểu hiện như thế nào? Xu hướng tương lai của hiện tượng này ra sao? Đó là mối quan tâm thúc đẩy nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu tại hai đơn vị đào tạo hàng đầu của Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu đã thực hiện khảo sát về nhu cầu sang nước ngoài học tập và làm việc của cán bộ thì có 431 trên tổng số 613 (tương ứng 70.3%) cán bộ có mong muốn và có 182 cán bộ không muốn ra nước ngoài tu nghiệp hoặc công tác. Trong đó, nhóm cán bộ trong độ tuổi dưới 50 là nhóm có nhu cầu nhiều hơn so với nhóm trên 50 tuổi. Thông qua hình 3.1 bên dưới, có thể thấy, nhóm nhân lực có độ tuổi càng cao thì nhu cầu ra nước ngoài học tập và công tác của họ càng thấp. Cụ thể, nhóm cán bộ dưới 30 tuổi có 89.2% muốn đi; nhóm 30 – 39 tuổi là 62.25% và nhóm 40 – 49 tuổi là 52.8%. Trong khi đó nhóm trên 60 tuổi chỉ có 6.7% muốn ra nước ngoài. Hình 3.1. Mối liên hệ giữa độ tuổi và nhu cầu tu nghiệp ở nước ngoài của nhân lực KH&CN chất lư ợng cao tại ĐHQGHN và ĐHQG Tp.HCM (Nguồn: Tổng hợp số liệu của đề tài KX01.01/16-20 năm 2018) Khảo sát cũng chỉ ra rằng nhân lực KH&CN chất lượng cao có mong muốn được tu nghiệp tại những nơi được coi là cốt lõi của hệ thống KH&CN của thế giới, điển hình là Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Châu Âu (Thụy Điển, Pháp, Đức, Hà Lan), Đông Bắc Á (Hàn Quốc, Nhật Bản, Liên bang Nga) và Úc. Sự phân bổ nhu cầu này một phần được lý giải vì đây là D.K.K. Ly / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 4 những nơi có hệ thống KH&CN hiện đại, là trung tâm giáo dục và nghiên cứu xuất sắc, có mạng lưới các nhà khoa học nổi tiếng, có cơ sở hạ tầng, môi trường làm việc, cơ hội việc làm cũng như những phúc lợi, an sinh xã hội cho nhà nghiên cứu và gia đình của họ đều ở mức tốt. Khi so sánh giữa hai Đại học, kết quả cho thấy, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị có tỷ lệ cán bộ không trở về làm việc sau khi tu nghiệp tương đối cao. Theo số liệu hình 3.2, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng cán bộ đi học ở nước ngoài trở về làm việc tại đơn vị là 81 người năm 2014 và 51 người năm 2017. Tuy nhiên, số cán bộ không trở về có dấu hiệu tăng từ 19/68 người năm 2013 lên 33/51 người năm 2017. Xét tổng số cán bộ đi học tại nước ngoài, Đại học Quốc gia Hà Nội có số lượng ít hơn so với Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên tỷ lệ cán bộ không trở về tại Đại học Quốc gia Hà Nội cũng là con số đáng quan tâm như năm 2016, có 10 người đi thì 3 người không trở về làm việc. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh Đại học Quốc gia Hà Nội Hình 3.2. Số lượng cán bộ đi học tại nước ngoài trở về của hai trường đại học giai đoạn 2013 - 2017 (Nguồn: Tổng hợp số liệu của đề tài KX01.01/16-20 năm 2018) Nguyên nhân chủ yếu để các nhân lực KH&CN chất lượng cao không trở về làm việc tại đơn vị, theo thống kê của nghiên cứu, nguyên nhân chủ yếu là “Đơn vị buộc thôi việc do đi quá thời hạn cho phép” với tỷ lệ 80.4%; tiếp là “xin gia hạn để hoàn thành khóa học” với tỷ lệ 63.7% và 57.1% là do “chuyển công tác”. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như “không hoàn thành khóa học” hoặc “định cư”. Hiện nay, đây là một hiện tượng khá phổ biến tại các tổ chức KH&CN chứ không chỉ tại hai đơn vị khảo sát. Như tại Đà Nẵng, thành phố đã cử 616 học viên đi học theo Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao (Đề án 922)2. Tuy nhiên, có 93 trường hợp rút khỏi đề án, trong đó 40 người xin rút khi đã nhận công tác với lý do 15 người muốn đoàn tụ gia đình, 6 người theo học cao hơn, 3 người vì lý do sức khỏe và 16 người muốn thay đổi công việc3. __________ 2 Dẫn theo số liệu tính đến tháng 6/2018 từ https://vnexpress.net/thoi-su/bi-thu-da-nang-da-den- luc-xem-lai-viec-cu-nhan-tai-di-hoc-3783183.html, truy cập ngày 11/3/2019. 3 Dẫn theo số liệu từ https://baomoi.com/da-nang-se- khong-cu-nhan-tai-di-hoc-dai-hoc-nuoc- ngoai/c/26173605.epi, truy cập ngày 11/3/2019. 68 81 73 52 51 19 27 24 24 33 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 2013 2014 2015 2016 2017 16 19 18 10 0 1 8 6 3 0 0 2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 2013 2014 2015 2016 2017 Số cán bộ trở về sau khi đi du học Số cán bộ không trở về sau khi du học D.K.K. Ly / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 5 Bảng 3.1. Lý do nhân lực KH&CN chất lượng cao không trở về làm việc tại đơn vị. % Đơn vị buộc thôi việc do đi quá thời hạn cho phép 80.4 Quá hạn, không hoàn thành khóa học 46.2 Xin gia hạn thêm thời gian 63.7 Định cư 44.2 Chuyển công tác 57.1 Đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc 27.1 (Nguồn: Tổng hợp số liệu của đề tài KX01.01/16-20 năm 2018) Tuy nhiên, công tác đào tạo là không thể thiếu trong quá trình quản lý nhân lực KH&CN chất lượng cao do vậy nhóm tác giả đã tìm hiểu sâu hơn về khoảng thời gian phù hợp nhất để đi học tập hoặc tu nghiệp ở nước ngoài nhằm hạn chế hiện tượng “đi không trở về”, thì các cán bộ trong hai đơn vị tham gia khảo sát nhận định rằng, khoảng thời gian dưới 1 năm là khoảng thời gian phù hợp nhất với tỷ lệ được lựa chọn cao nhất là 64.5%; 23.9% muốn đi trong khoảng 1 – 3 năm và 11.6% muốn đi trong thời ... 0 tuổi có 3.8% có mức thu nhập 10 – 15 triệu. Ở mức thu nhập 15 triệu/tháng cán bộ dưới 30 tuổi chiếm 3.3%; 30 – 39 tuổi là 33.8%; từ 40 – 49 tuổi là 34.4%; từ 50 – 60 tuổi là 15.6% và trên 60 tuổi là 13.0%. Qua đây có thể thấy, hầu hết các cán bộ trẻ là những người chưa có nhiều kinh nghiệm và chưa khẳng định được vị thế trong cộng đồng khoa học nên mức thu nhập của họ còn hạn chế. Hơn hết việc tính lương hiện nay vẫn chủ yếu dựa trên thâm niên công tác và học hàm, học vị (để đạt được học hàm, học vị, các cán bộ cũng phải mất trung bình 5-10 năm, thậm chí là lâu hơn). Đây cũng là nhóm tuổi có mức thu nhập phần lớn dựa vào lương (87.8%) và công việc làm thêm từ kinh doanh, dịch vụ khác (92.6%8). Bên cạnh đó, nhóm cán bộ trên 60 tuổi là nhóm đã khẳng định uy tín trong cộng đồng khoa học __________ 8 Trong tổng số người được hỏi có tham gia làm thêm các công việc liên quan đến kinh doanh, dịch vụ D.K.K. Ly / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 10 nhưng chuẩn bị hoặc đã về hưu. Thu nhập hàng tháng chủ yếu dựa vào lương (96.3%) và thông qua một số hoạt động làm thêm liên quan chuyên môn (chiếm 90.5% tổng số người trên 60 tuổi có làm thêm) như tham gia viết bài hội thảo, tư vấn chuyên môn, thỉnh giảng, Như vậy, hiện tượng di động xã hội không kèm di cư đã và đang diễn ra khá phức tạp trong nhân lực khoa học tại 2 trường đại học. Hiện tượng đa vị thế, đa vai trò khi một cán bộ khoa học có thể nắm giữ, đảm nhiệm nhiều vị thế, công việc cùng một lúc đang trở nên khá phổ biến. Tìm hiểu sâu về vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã có những trao đổi và trưng cầu ý kiến với một số chuyên gia xã hội học về lĩnh vực di động xã hội cũng như các nhà quản lý nhân lực, nghiên cứu đã đưa ra một chỉ báo để đo mức độ di động xã hội không kèm di cư của nhân lực khoa học thông qua câu hỏi về tham gia hợp tác với các tổ chức khác ngoài đơn vị làm việc. Đây có lẽ là một chỉ báo đáng tin cậy hơn cả để đo mức độ di động xã hội của nhân lực KH&CN chất lượng cao cũng như xu hướng di động xã hội của nhóm nhân lực này trong tương lai. Bởi lẽ, khi đưa ra các câu hỏi liên quan đến thu nhập hay việc đi làm thêm thì nhiều khi đối tượng trả lời sẽ lảng tránh, hoặc không đưa ra những câu trả lời trung thực, thông tin thu được sẽ khó đảm bảo được độ tin cậy. Kết quả nhận được khá thú vị và có sự khác biệt khá rõ so với các thông tin đã thu thập và phân tích ở trên. Có tới 65.3% số người được hỏi trả lời có nhận được lời mời và tham gia cộng tác với các cơ quan ngoài đơn vị trong khi với câu hỏi làm thêm thì tỷ lệ này chỉ là 49.0%. Xét tương quan giữa tham gia cộng tác với các tổ chức thì kết quả cho thấy, Đại học Quốc gia Hà Nội là đơn vị có tỷ lệ cán bộ tích cực tham gia cộng tác hơn so với Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể, ở Đại học Quốc gia Hà Nội có 44.0% cán bộ tham gia cộng tác liên tục với các tổ chức trong nước trong khi đó, tỷ lệ này ở Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là 35.8%. Về sự hợp tác với tổ chức nước ngoài, Đại học Quốc gia Hà Nội có 18.0% cán bộ tham gia hợp tác, trong khi đó, tỷ lệ này ở Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là 9.4%. Hình 3.5 Mối liên hệ giữa loại hình công việc tham gia cộng tác với các cơ quan ngoài đơn vị công tác và đơn vị công tác của NLKH&CN chất lượng cao (%) (Nguồn: Tổng hợp số liệu của đề tài KX01.01/16-20 năm 2018) 0 20 40 60 80 100 Tham gia công tác thực hiện hội thảo, hội nghị, tọa đàm Tham gia công tác nghiên cứu KH/đề tài/dự án Tham gia công tác tư vấn Tham gia công tác quản lý Tham gia là cán bộ kiêm nghiệm Là cộng tác viên theo gói công việc 54.8 56.2 34.1 14.5 12.2 32.1 95.4 96.2 91.2 41 40.6 89.8 ĐHQGHCM ĐHQGHN D.K.K. Ly / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 11 Theo quy luật “cung-cầu” của thị trường lao động, chất xám luôn có nhu cầu và mong muốn được dịch chuyển đến những nơi mà lợi ích được tối đa hóa. Dòng chảy này diễn ra một cách tất yếu và tự nhiên. Khi mà thế giới được ví như “một công trường lao động”, người lao động có thể tự do di chuyển để lựa chọn vị trí làm việc, lựa chọn công việc mà mình thích. Tuy nhiên, sự di chuyển này không còn đơn thuần chỉ là di chuyển về mặt địa lý một cách cơ học của nhân lực khoa học nữa mà nó đã trở thành sự chuyển dịch riêng của dòng chất xám [8]. Xét về tác động dương tính thì hiện tượng di động không kèm di cư của nhân lực KH&CN chất lượng cao mở ra cho họ những cơ hội tìm kiếm vị trí thích hợp với chuyên môn và năng lực của mình. Cùng với đó, hiện tượng này cũng sẽ tạo ra một sự thăng bằng về mặt lực lượng nhân lực khoa học, bù đắp được sự thiếu hụt nhân lực khoa học trong những năm gần đây trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Có những ngành nghề, những lĩnh vực chuyên môn chỉ có một hay một số chuyên gia, nhưng nhu cầu thực tế về giảng dạy, nghiên cứu cũng như tiến hành các công việc có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn đó là rất lớn. Do vậy, hiện tượng làm thêm, tham gia cộng tác với các cơ quan ngoài đơn vị diễn ra như một lẽ tự nhiên để bù đắp vào các “lỗ hổng chất xám” đang còn thiếu hụt trong đội ngũ cán bộ khoa học. Minh chứng cho điều này, có tới 76.7% người trong tổng số 613 cán bộ tham gia khảo sát cộng tác với các trường đại học bên ngoài đơn vị. Bên cạnh đó, hiện tượng đa vị thế, đa vai trò, tham gia nghiên cứu, giảng dạy với các đơn vị khoa học bên ngoài sẽ giúp cho nhân lực khoa học của các trường đại học, các viện nghiên cứu giúp cho nhân lực KH&CN có chuyên môn sâu hơn, cung cấp thêm các luận cứ thực tiễn cho bài giảng, và lĩnh vực chuyên môn nghiên cứu, tích luỹ và bổ sung kinh nghiệm nghiên cứu, giảng dạy và từ đó góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn của mình. Trong quá trình di động xã hội, cộng tác với cơ quan ngoài trường, rất nhiều cá nhân chỉ kỳ vọng và mong muốn có được thêm thu nhập từ việc di động đó nhưng có một số kết quả thu được lại vượt ngoài mong muốn của họ. Ví dụ như mở rộng quan hệ hợp tác, trao đổi chuyên môn, có các dự án, các đề tài mới,... Và để tìm hiểu rõ hơn về xu hướng của hiện tượng di động không kèm di cư, nhóm tác giả “test” (kiểm tra) thêm câu hỏi về dự định hợp tác trong tương lai của nhân lực KH&CN chất lượng cao. Thông qua kết quả khảo sát có thể thấy, có sự khác biệt về lựa chọn dự định hợp tác giữa các nhóm có thâm niên làm việc khác nhau. Nhóm nhân lực có thâm niên lâu nhất (từ 25 - 30 năm) có xu hướng không tham gia một số hoạt động nữa như: công tác quản lý, tư vấn cho cơ quan và làm cán bộ kiêm nhiệm. Một phần lý do là do họ đã có tuổi, hạn chế về sức khỏe nên không tham gia công tác quản lý nữa. Nhưng đây là nhóm có tỷ lệ mong muốn tiếp tục hợp tác nghiên cứu khoa học nhiều nhất (75.0%) và mong muốn chia sẻ kiến thức với thế hệ trẻ thông qua công tác giảng dạy (59.0%). Trong những năm công tác đầu tiên tại tổ chức khoa học, cá nhân người nghiên cứu thường có tâm lý tập trung thời gian, trí tuệ và sức lực để phấn đấu, khẳng định mình trong trường và do đó sẽ ít có khả năng di động xã hội. Trong những năm sau, sau khi đã hoàn thành các mục tiêu phấn đấu để trở thành các công chức hay viên chức vô thời hạn thì họ sẽ dành ít nhiều thời gian để tìm kiếm các cơ hội di động ra bên ngoài nhằm nâng cao thêm thu nhập hay học hỏi thêm các kinh nghiệm, củng cố và nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn. Tại thời điểm này thì khả năng di động xã hội của nhân lực sẽ tăng cao hơn. Phải chăng, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt về khả năng di động xã hội theo thâm niên công tác tại đơn vị. Song hành với những tác động tích cực, hiện tượng đa vị thế, đa vai trò của nhân lực KH&CN chất lượng cao cũng có các tác động âm tính. Đầu tiên, đó là sự thiếu hụt chất xám và việc “chảy chất xám tại chỗ” của các trường [8]. Các trường đại học có nhân lực chất lượng cao nhưng lại không thể tận dụng lượng chất xám có sẵn, thậm chí, chỉ sử dụng được một phần nhỏ chất xám. Có nhiều trường hợp cán bộ chỉ là có vị trí, chức danh ở trường nhưng lại D.K.K. Ly / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 12 dành toàn bộ thời gian, công sức cho các công việc khác, cho các tổ chức khác bên ngoài. Thêm vào đó, chính bản thân nhân lực KH&CN cũng đòi hỏi phải biêt sắp xếp các công việc và điều hoà các mối quan hệ xã hội để tránh hiện tượng “xung đột vai trò”. Khi “xung đột vai trò” thì rất dễ ảnh hưởng đến chất lượng công việc chính đang đảm nhận, thậm chí ảnh hưởng đến tâm lý làm việc, lâu dài dẫn đến loại hình di động xã hội kèm di cư. Từ các phân tích nêu trên, có thể thấy, ở hai trường đại học lớn, hiện tượng di động xã hội không kèm di cư đang ngày càng tăng và có diễn biến phức tạp với những hệ quả gây bất lợi cho tổ chức trong tương lai. Điều này đòi hỏi phía lãnh đạo trường cần có những đối sách kịp thời để hạn chế những rủi ro từ hiện tượng này để sử dụng hiệu quả nguồn chất xám đang có. 4. Khuyến nghị Hiện tượng di động xã hội đang hiện hữu tại bất kỳ tổ chức nào bởi các hệ thống KH&CN hiện nay đều là hệ thống mở. Và khi đã là hệ thống mở thì sự lưu chuyển là điều không thể tránh khỏi. Nói như vậy để thấy rằng hiện tượng di động xã hội là một hiện tượng tự nhiên và tất yếu. Điều đáng chú ý ở đây là sự dịch chuyển không phải là của cải vật chất mà lại là “chất xám”. Dù là loại di động xã hội kèm di cư hay không kèm di cư của nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao thì đều có thể đem lại hệ quả nhất định nếu không có những nhận thức và chính sách điều chỉnh kịp thời và đúng đắn. Bởi lẽ chất xám không chỉ di chuyển sang các nước khác mà nguồn chất xám tại chỗ cũng không được sử dụng “vẹn toàn” cho các mục tiêu KH&CN gây ra sự “lãng phí nguồn chất xám”. Những nguyên nhân như bài viết đã phân tích đều thuộc hai nhóm chính: nhóm nguyên nhân nội tại và nhóm nguyên nhân từ môi trường, bối cảnh. Nhóm nguyên nhân nội tại xuất phát từ việc bất cân bằng về thu nhập, chế độ đãi ngộ, sự phát triển của nền kinh tế, điều kiện làm việc và cơ hội để người tài được phát huy khả năng của mình. Ngoài ra, cách sử dụng và quản lý nhân lực KH&CN chất lượng cao tại các trường đại học vẫn chưa được chú trọng dẫn đến sự gia tăng của hiện tượng “chảy chất xám tại chỗ”. Bên cạnh đó, nhóm các yếu tố bên ngoài như ảnh hưởng của toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp 4.0 và các chính sách thu hút nhân tài từ các quốc gia khác cũng là những tác nhân thúc đẩy sự di chuyển của nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao. Tổng hợp các yếu tố này chính là bài toán nan giải và phức tạp mà các Trường Đại học cũng như Việt Nam nói chung cần tháo gỡ. Do vậy, dựa trên thực trạng di động nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao đã phân tích ở trên, bài viết đã đưa ra một số khuyến nghị sau: Chú trọng đến nhóm chính sách đầu tư: Các điều kiện làm việc cũng như thu nhập là những lực hút để nhằm giữ chân nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao. Các trường đại học cần cải thiện môi trường làm việc như đầu tư các trang thiết bị, cơ sở vật chất, không gian nhằm đảm bảo cho quá trình học tập, nghiên cứu của các cán bộ. Hơn nữa, để tạo nguồn chất xám cho tương lai, các đơn vị cần tạo cơ hội thăng tiến cũng như các nhiệm vụ KH&CN cho những cán bộ trẻ có năng lực thể hiện và cống hiến. Ngoài ra, vấn đề trọng yếu là không thể trả lương theo kiểu “cào bằng” mà cần xây dựng một cơ chế lương bổng trả theo năng lực, kết quả làm việc. Chú trọng đến nhóm chính sách về sử dụng và thu hút nhân lực KH&CN chất lượng cao: Có nhiều hình thức để sử dụng nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao tại các trường đại học như sử dụng nhân lực theo nguyên tắc “đúng người đúng việc”, đánh giá chất lượng nhân lực bằng “đầu ra”, sử dụng nhân lực theo mô hình UBER [9], sử dụng nhân lực theo mô hình dự án,... Có thể cân nhắc đến chính sách sử dụng nhân lực theo hình thức hợp đồng lao động thay cho chính sách biên chế hiện nay để tạo động lực làm việc và tăng năng suất làm việc của nhân lực KH&CN chất lượng cao. Còn về chính sách thu hút thì cần thực hiện theo cả hai chiều: “nội” và “ngoại”. Chiều thu hút “ngoại” là thu hút nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao từ D.K.K. Ly / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 13 bên ngoài (từ các nước khác, tổ chức KH&CN khác) đến các trường đại học và chiều thu hút “nội” chính là việc tạo các chính sách để “giữ chân” nhân tài hiện đang công tác trong trường đại học. Thực hiện cả hai chiều thu hút như vậy sẽ giúp tổ chức phát triển bền vững và ổn định trong bối cảnh các tổ chức, các quốc gia khác cũng đang xây dựng các chiến lược, chính sách thu hút nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao./. Lời cảm ơn Bài viết là kết quả nghiên cứu thuộc đề tài “Chính sách quản lý di động xã hội đối với nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế” (Mã số KX01.01/16-20) thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020: “Nghiên cứu những vấn đề trọng yếu về khoa học xã hội và nhân văn phục vụ phát triển kinh tế xã hội” – Mã số KX.01/16-20. Tài liệu tham khảo [1] Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/CT- TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. [2] Đào Thanh Trường (2017), Di động xã hội và quản lý di động xã hội đối với Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao ở Việt Nam, Tạp chí Xã hội học, số 4 (140), tr.39-48. [3] Grubel, H.G. (1994), Brain Drain, Economics of. In: Husen, T., Neville Postlethwaite, T. (Eds.): The International Encyclopedia of Education, Vol. I, Oxford, 554-561. [4] Baruffaldi, S.H./Landoni, P. (2012), Return mobility and scientific productivity of researchers working abroad: The role of home country linkages, Research Policy 41, 1655-1665. [5] Bộ Khoa học và Công Nghệ (2016), Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2016 [6] Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia (2014), Nghiên cứu và ứng dụng phương pháp luận của OECD trong việc xác định chỉ tiêu nhân lực toàn thời gian tương đương (FTE) [7] Đào Thanh Trường (2008), Di động xã hội của cộng đồng khoa học (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội), Luận án Tiến sĩ. [8] Đào Thanh Trường (2018), Chảy chất xám tại chỗ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: Một số vấn đề đặt ra, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3, tr 1-7 [9] Đào Thanh Trường, Nguyễn Thị Quỳnh Anh (2017), “UBER” nhân lực R&D - Một cách tiếp cận trong thu hút và sử dụng nhân lực nhân lực hiện nay, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 33, Số 1, 2017. L.V. Chiều và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 4 (2018) 1-7 14
File đính kèm:
- social_mobility_of_high_quality_st_human_resources_in_univer.pdf