Thực trạng bình đằng giới trong gia đình người Việt – Nghiên cứu tại một xã nông thôn vùng Tây Nam Bộ
Ra các quyết định trong gia đình là một chỉ báo thường được sử dụng để đo lường địa
vị của người phụ nữ trong gia đình. Do ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo, trong gia
đình Việt Nam nói chung và gia đình nông thôn nói riêng, nam giới luôn được đề cao
vai trò là trụ cột và có tiếng nói quyết định trong các công việc gia đình. Bài viết này
tìm hiểu thực trạng bình đẳng giới trong gia đình người Việt – nghiên cứu trường hợp
tại một xã nông thôn vùng Tây Nam Bộ, qua đó thấy được sự bất bình đẳng giới trong
phân công lao động gia đình vùng nông thôn Tây Nam Bộ.
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng bình đằng giới trong gia đình người Việt – Nghiên cứu tại một xã nông thôn vùng Tây Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng bình đằng giới trong gia đình người Việt – Nghiên cứu tại một xã nông thôn vùng Tây Nam Bộ
14 CHUYÊN MỤC KINH TẾ HỌC - XÃ HỘI HỌC THỰC TRẠNG BÌNH ĐẰNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT – NGHIÊN CỨU TẠI MỘT XÃ NÔNG THÔN VÙNG TÂY NAM BỘ NGUYỄN TẤN DÂN Ra các quyết định trong gia đình là một chỉ báo thường được sử dụng để đo lường địa vị của người phụ nữ trong gia đình. Do ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo, trong gia đình Việt Nam nói chung và gia đình nông thôn nói riêng, nam giới luôn được đề cao vai trò là trụ cột và có tiếng nói quyết định trong các công việc gia đình. Bài viết này tìm hiểu thực trạng bình đẳng giới trong gia đình người Việt – nghiên cứu trường hợp tại một xã nông thôn vùng Tây Nam Bộ, qua đó thấy được sự bất bình đẳng giới trong phân công lao động gia đình vùng nông thôn Tây Nam Bộ. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Vấn đề bình đẳng giới đang được hầu hết các quốc gia quan tâm và được xác định là 1 trong 8 mục tiêu Thiên niên kỷ(1). Bình đẳng giới cũng được đề cập đến trong các chương trình, dự án phát triển hợp tác song phương và đa phương giữa các quốc gia. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) được phê chuẩn ngày 27/11/1981(2). Đảng và Nhà nước ta quan tâm và đặt vấn đề bình đẳng giới là một trong những mục tiêu và là động lực phát triển quốc gia. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới đã được cụ thể hóa trong Hiến pháp (2013), Luật Bình đẳng giới (2006)(3), Luật Phòng chống bạo lực gia đình (2007)(4). Trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020(5) của nước ta, có mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và Nguyễn Tấn Dân. Thạc sĩ. Trung tâm Nghiên cứu Giới và Gia đình. Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ. NGUYỄN TẤN DÂN – THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI 15 xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Trong những năm qua, sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở Việt Nam đã đạt được những thành quả nhất định trong đời sống kinh tế - xã hội, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những bất cập, nhất là trong gia đình ở khu vực nông thôn. Theo thuyết Nữ quyền phương Tây, phụ nữ là trung tâm trong việc phân tích đời sống gia đình, xã hội. Sự bình đẳng giới trong đời sống gia đình được thể hiện chủ yếu trên các khía cạnh: (1) sự phân công lao động; (2) quan hệ quyền lực; (3) các hoạt động chăm sóc thành viên gia đình. Dựa trên thuyết Nữ quyền, bài viết tiếp cận vấn đề bất bình đẳng giới trong gia đình nông thôn vùng Tây Nam Bộ ở những khía cạnh nêu trên. Tài liệu để hoàn thành bài viết này dựa trên các 20 cuộc phỏng vấn sâu với người dân, 2 cuộc thảo luận nhóm và những quan sát tại địa bàn một xã nông thôn thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp năm 2014. 2. BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG VIỆC ĐƯA RA CÁC QUYẾT ĐỊNH TRONG GIA ĐÌNH Luật Bình đẳng giới (2006) quy định về bình đẳng giới trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, y tế, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, văn hóa-thông tin và gia đình, thể hiện một bước tiến mới trong mục tiêu bình đẳng giới. Văn hóa Nho giáo vốn đã bén rễ bền chặt trong quan niệm, thái độ, ứng xử của người Việt từ nhiều thế kỷ qua - ở đó, người phụ nữ được xem là “nữ nhi ngoại tộc”, hay “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, nên để thay đổi những giá trị mang tính “trọng nam, khinh nữ” cần phải có thời gian nâng cao nhận thức và cải thiện lối ứng xử của các thế hệ người Việt nói chung và ở vùng Tây Nam Bộ nói riêng. Ra các quyết định là một chỉ báo thường được sử dụng để đo lường địa vị của người phụ nữ trong gia đình. Tuy vậy, quyền ra các quyết định trong gia đình không chỉ chịu sự chi phối bởi yếu tố giới tính mà còn có các yếu tố khác, như: (1) lĩnh vực ra quyết định (nuôi dạy con cái, mua sắm đồ dùng hay xây nhà cửa,); (2) tầng lớp xã hội của gia đình (nông thôn hay thành thị, mức sống,); (3) tuổi tác và các giai đoạn trong đường đời của người phụ nữ. Xem xét giới tính trong mối quan hệ với các yếu tố trên, chúng tôi lựa chọn một số hướng tiếp cận sau: 2.1. Quyết định trong cuộc sống hôn nhân Trong việc kết hôn Hôn nhân được xem là một thiết chế tồn tại song hành với các thiết chế khác (kinh tế, giáo dục, chính trị, tôn giáo), bao gồm một hệ thống các chuẩn mực khiến hành vi của con người được sắp đặt trong những mẫu hình có tính bền vững. Theo quan điểm của người Việt, hôn nhân là một trong ba chuyện hệ trọng đối với cuộc đời của một con người: “Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà / Trong ba việc ấy ắt là khó thay”. Hôn nhân còn chịu sự chi phối bởi bối cảnh văn hóa và điều kiện lịch sử của từng thời kỳ. Dữ liệu điều tra cho thấy một số đặc điểm hôn nhân của người dân nông thôn vùng Tây Nam Bộ như sau: Hôn nhân ở Tây Nam Bộ trước Đổi mới (1986), thậm chí là cho đến nay vẫn mang nhiều tàn dư của tư tưởng Nho TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (200) 2015 16 giáo. Trước năm 1975, hôn nhân của người dân Tây Nam Bộ hầu như là do mai mối, “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”. Thông thường, người mai mối sẽ giới thiệu bên nhà trai về cô gái nào đó mà họ “chấm”, sau đó nhà trai sẽ qua nhà gái để hỏi cưới, nếu nhà gái đồng ý thì đám cưới được tiến hành mà không nhất thiết phải thông qua ý kiến của đương sự, đặc biệt là nữ giới. Cha mẹ có toàn quyền trong việc quyết định hôn sự của con cái và đó còn là thể hiện trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái. Cha mẹ thường mong muốn chọn cho con gái một người chồng hiền lành, chí thú làm ăn, không quá chênh lệch so với hoàn cảnh của gia đình và xem việc quyết định hôn sự cho con gái là “quyền của cha mẹ”. Quan niệm này còn thấy rất rõ trong lớp tuổi trung niên trở lên, sống ở nông thôn, học vấn thấp, ít có cơ hội tiếp xúc với bên ngoài. “Người ta mần mai đó, chứ không có quen trước. Hồi đó cũng kể như hồi xưa đi chớ đâu phải tân thời như bây giờ. Hồi xưa đâu có quen có phên gì đâu, đâu có bạn bè, đâu có se sua. Năm em 17-18 tuổi người ta không có tới, với lại ba em cũng khó nữa, 17-18 tuổi ổng đâu có chịu gả. Quê em ở dưới Mỹ Hội nè, lấy chồng về Mỹ Tho. Người ta mai mối hai đám, ba em ưng ông này ổng gả, chớ em không biết vì sao ổng ưng ông này [chồng người trả lời] nữa. Em không cãi ba em được. Ba em gả chị hai em cũng vậy nữa, ổng quyết định gả là ổng gả hà. Ổng theo xưa mà, ổng hỏi em thì mình cũng lớn rồi, em nói tùy ba, ba coi được thì ba gả chớ mình đâu có biết coi gì đâu. Ba em gả là mẹ em đồng ý gả luôn, chứ không có ý kiến khác đâu. Ba em luôn là người chủ gia đình, mẹ em phải nghe theo” (N.T.T – nữ - 53 tuổi). Hôn nhân của đôi trẻ không chỉ là nhiệm vụ chính của cha mẹ mà còn là trách nhiệm của cả họ hàng. Do vậy, khi họ hàng đã ưng thuận chàng trai nào đó, nhưng lúc này cô gái chưa bằng lòng, thì họ ra sức bồi đắp cho chàng trai, thuyết phục cô gái, để đến một lúc nào đó cô gái cũng sẽ phải bằng lòng. Loại hình hôn nhân mai mối này chịu sự chi phối của áp lực cộng đồng khiến người trong cuộc đôi khi lại miễn cưỡng quyết định hạnh phúc của chính mình. “Thích thì không thích, thương cũng không thương [] Hồi đó tui đâu có chịu ổng đâu. Bà má tui bả không chịu gả []. Cũng nhờ mấy anh năn nỉ bà má, mấy ông anh rể năn nỉ dữ dằn lắm. Rồi ổng [ông chồng] nhờ người [mấy ông anh rể] nói hoài riết rồi ba má cho cưới. Mấy anh ở nhà thương ổng [ông chồng] lắm, hồi đó ổng [ông chồng] được lắm ai cũng thương hết, rồi mới đốc gả [giục cưới]” (N.T.N – nữ - 58 tuổi). Hiện nay, với những thay đổi về điều kiện kinh tế-văn hóa-xã hội, hôn nhân mai mối chỉ còn tồn tại ở một số ít gia đình, hoặc đã có sự chuyển biến. Nếu như trước đây cha mẹ hoàn toàn tự quyết định hôn sự cho con cái, thì nay cha mẹ đã hỏi ý kiến của con cái trước khi quyết định. Hôn lễ chỉ diễn ra khi đương sự đồng ý với cha mẹ. Ngày nay cơ hội để nam - nữ trực tiếp gặp gỡ, tìm hiểu rộng mở hơn nhiều so với thế hệ cha mẹ họ, nhất là khi việc xuất cư đến các vùng đô thị đang tăng NGUYỄN TẤN DÂN – THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI 17 cao. Thanh niên được trao cho cơ hội lựa chọn bạn đời, nhưng phần lớn trường hợp vẫn phải được cha mẹ đồng ý. “Hai đứa nó đồng ý rồi thì tui cưới cũng như nó thương nhau rồi là mình cưới. Đời bây giờ mà thì thôi kệ nó lựa cho nó đi. Mình không ép nó nhưng mà nó nói mình cũng không được. Mình không ép nó cưới, nếu hai đứa con đồng ý thì tới phiên người lớn tới” (P.T.L – nữ - 59 tuổi). Người Tây Nam Bộ tuy không có xu hướng khuyến khích nội hôn trong làng xã, song cũng có tâm lý phân biệt và hạn chế hôn nhân với các vùng khác nhằm đảm bảo sự hòa hợp trong đời sống gia đình, hạn chế sự khác biệt văn hóa có thể cản trở hạnh phúc trong hôn nhân và gia đình. “Con rể tui người ở đây không hà tui chỉ cưới gả với gia đình trong Nam thôi, còn miền ngoài [miền Trung và miền Bắc] thì không à. Mấy người đó khó lắm, con gái tui làm dâu không nổi đâu. Tui không gả cũng không cưới tại vì cách sống của hai bên không hợp nhau. []. Không phải người ta muốn khó nhưng mà người ta sống theo đúng cái luật của người ta. Dân miền Nam sống cái gì cũng đơn giản, còn người miền Bắc thì lễ nghĩa lắm. Tui biết chứ” (N.V.B – Nam - 68 tuổi). Trong việc lựa chọn nơi sinh sống Sau lễ cưới, một gia đình mới chính thức được thiết lập trước sự đồng tình và chứng kiến của họ hàng hai bên. Theo cuộc điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, có 64,8% các cặp vợ chồng độ tuổi 18-60 và 57,8% các cặp độ tuổi từ 61 trở lên đã “ở chung với gia đình chồng và ăn chung” ngay sau khi cưới (Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc, 2008, tr. 65). Như vậy, hình thức cư trú bên chồng vẫn phổ biến ở hôn nhân của người Việt. Cư trú bên chồng sau kết hôn, tức là cô dâu sẽ rời nhà cha mẹ đẻ để đến sống tại nhà chồng, trong dân gian vẫn thường gọi là “làm dâu”. Tùy thuộc điều kiện của mỗi gia đình mà thời gian đôi vợ chồng sống chung với cha mẹ dài hay ngắn. Theo phỏng vấn, có 18/20 trường hợp cư trú bên chồng sau khi kết hôn cho biết họ phải được sự đồng ý của cha mẹ chồng thì mới được ra ở riêng. “Làm dâu 11 năm mới được ra ở riêng, bả [mẹ chồng] cho ra riêng [bố chồng đã mất nên mẹ chồng có quyền quyết định chính]. Bả nói tụi bây muốn cất nhà thì cất đi, được rồi đó” (H.T.B – nữ - 60 tuổi). Ở nông thôn Tây Nam Bộ, con trai út, khi lập gia đình, phần lớn sẽ sống chung với cha mẹ - gia đình gốc – cho đến khi cha mẹ mất, chứ không tách hộ như những anh trai của mình. Con út sẽ là người phụng dưỡng cha mẹ và thờ cúng ông bà tổ tiên, ngược lại với ở miền Bắc, người con trai trưởng lại được mong đợi thực hiện tốt vai trò này. Cũng vì lý do phụng dưỡng cha mẹ già và hương khói khi cha mẹ khuất nên người con trai út thường được cha mẹ chia cho tài sản nhiều hơn so với những anh trai khác. Con trai út sẽ được hưởng thêm 2 phần tài sản, thường được tính bằng đất, đó là: (1) đất để hương hỏa và (2) đất được quy ra cho các đám giỗ mà người con đứng ra lo cho cha mẹ, ông bà tổ tiên. Chỉ “khi nào mà út nó không chịu thì mới TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (200) 2015 18 đưa con trai đầu” (Nhóm nữ - tuổi từ 25- 60). Như lời kể của người vợ có chồng là con trai út: “Gia đình em con trai thì cho 5 công ruộng, còn con gái 3 công 4 công gì đó. Cũng có chênh lệch giữa trai và gái nhưng không quá nhiều. Vợ chồng em cũng được 5 công ruộng, bà già còn để lại 5 công ruộng nữa để thờ cúng cha mẹ đó. Vợ chồng em ở với bà nên lãnh luôn 5 công đó, mình lãnh giỗ mà” (L.T.L - nữ - 43 tuổi). Mặc dù con gái cũng được thừa hưởng tài sản của cha mẹ đẻ, kể cả ruộng đất, nhưng vẫn có một tâm lý chung là cha mẹ khi về già vẫn muốn sống chung với con trai và con dâu. Một bà mẹ chồng lý giải: “Mình phải ở với con trai, con gái còn có con rể làm sao mình ở được. Nhiều khi khó lắm, con dâu nói vậy chớ nó dễ, còn con rể nhiều khi nó nhậu vô nó nói nuôi bà già vợ thì sao. Khó lắm, chẳng thà mình ở với con mình” (P.T.L – nữ - 59 tuổi). Như vậy, việc cha mẹ ở với con trai - con dâu hay con gái - con rể cũng xuất phát từ tâm thức truyền thống “dâu là con, rể là khách”. Do đó, tâm lý khát khao con trai cũng xuất phát từ đây, chúng tôi sẽ bàn luận vấn đề này ở phần sau. Trong phân công việc nhà Cuộc sống của người phụ nữ vừa kết hôn ít nhiều bị tác động bởi giai đoạn sống cùng nhà chồng (đặc biệt là con dâu út). Việc đầu tiên mà người con dâu mới phải làm là tuân thủ sự phân công công việc từ mẹ chồng. Công việc chính mà người con dâu nông thôn Tây Nam Bộ là phải đảm đương các công việc nội trợ cho cả gia đình, hay chăn nuôi, lao động đồng áng, nhận hàng về gia công tại nhà... Người con dâu hiển nhiên xem đấy là trách nhiệm, bổn phận của mình. Còn các bà mẹ chồng sẽ bớt đi gánh nặng công việc gia đình, họ cũng tự cho mình có quyền được rảnh rỗi khi có con dâu mới: “Em ôm trong ngoài luôn, từ hồi đó tới giờ là vậy đó. Em đảm nhận hết trơn, má em chỉ làm vậy thôi, mình là dâu là con mình phải làm, không lẽ để mẹ mình làm cho mình ăn, mình phải làm hết” (L.T.L – nữ - 43 tuổi). Nhưng từ điều này lại hình thành một vấn đề có tính bất bình đẳng giữa các con dâu với chị em gái chồng còn chưa lập gia đình đang sống chung với cha mẹ: “Việc nhà thì có cơm nước, giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa. Việc nhà xúm vô làm nhưng vì em là dâu nên em phải làm chính những chuyện liên quan đến cơm nước, dọn dẹp nhà cửa. [] Người ta đi làm về mệt mỏi thì nghỉ, còn mình phận làm dâu mà thì dù có mệt cũng phải làm. Làm dâu hồi đó mà chứ đâu phải như bây giờ. Làm dâu thì phải nấu cơm, rửa chén, quét nhà, giặt đồ. Mấy cô em chồng chỉ làm khi nào em bận việc gì đó” (N.T.M.T – nữ - 50 tuổi). Do công việc đồng áng hiện nay đã có máy móc, dịch vụ nên người phụ nữ làm dâu ngày nay nhìn chung đỡ vất vả hơn so với thế hệ mẹ của họ. Họ được giảm bớt công việc ruộng đồng chỉ còn lo việc nội trợ, chăm sóc con cái, chăn nuôi hay làm thêm một số công việc khác. Những phụ nữ có công ăn việc làm ổn định tại một cơ quan nào đó thì có vẻ như ít áp lực hơn khi làm dâu, vì phần lớn thời gian họ không ở nhà, công việc nhà do các thành viên khác đảm trách, thậm chí NGUYỄN TẤN DÂN – THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI 19 có trường hợp là cha mẹ chồng đảm nhận. Trong việc quản lý tài chính và phân chia tài sản Đối với các con trai khác (không phải là con trai út), sau khi kết hôn xong sẽ cư trú tại gia đình mình cùng với vợ một thời gian nhất định, cùng tham gia lao động sản xuất với gia đình. Tùy vào từng gia đình mà đôi vợ chồng trẻ được tích lũy tiền riêng hay phải bỏ vào quỹ chung của gia đình do mẹ chồng làm “chìa khóa tay hòm”. Khi đôi vợ chồng ra ở riêng, gia đình bên chồng sẽ chia cho đôi vợ chồng một số tài sản, thường gọi là “vốn”, để đôi vợ chồng ... con coi làm cái gì tiện thì con bàn với mẹ con tính toán, rồi mình cũng có bàn với ổng vậy đó” (L.K.A – nữ - 47 tuổi). 3. BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG GIA ĐÌNH 3.1. Việc chăm sóc con cái và người già/ người bệnh Trong xã hội nông thôn, nam giới không thường xuyên chăm sóc con cái, người già, người ốm, họ chỉ đảm nhận khi gia đình neo người hoặc chỉ làm tạm thời. Bởi họ theo quan niệm nam giới phải lo kiếm tiền cho cả gia đình, còn phụ nữ làm nội trợ, sinh con, chăm sóc cha mẹ già. Việc chăm sóc trẻ em ở những gia đình gốc (nhiều thế hệ) thuận tiện hơn cho đôi vợ chồng, bởi vì con cái của họ được bố mẹ chồng chăm sóc, trông nom, giúp họ an tâm mưu sinh. Nhưng đối với những gia đình đã tách hộ, việc chăm sóc con cái đè nặng lên đôi vai người vợ. Nếu gia đình kinh tế khá giả, người phụ nữ chỉ có việc nội trợ, chăm sóc con cái và có thể nhận thêm việc làm tại nhà (lột sen, đan lục bình). Nhưng nếu gia đình khó khăn về kinh tế, người vợ còn phải phụ giúp chồng công việc đồng áng. Ở các thế hệ lớn tuổi, phụ nữ thường chịu nhiều vất vả, áp lực, vừa làm việc đồng áng vừa một tay chăm sóc con cái. Còn nam giới chỉ làm mỗi việc lao động sản xuất, ít phụ giúp vợ chăm sóc con cái, người già. “Có con rồi như con Trinh nó lớn được 2- 3 tuổi thì nó ở nhà với bà nội. Bà nội giữ cháu, còn em đi đặt lợp đặt lờ với ổng, lúc đó chỉ còn hai vợ chồng đi làm” (L.T.L – nữ - 43 tuổi). “Ở trong nhà thì sanh ba đứa, chăm sóc con cái thì mình nhiều hơn là ổng. Ổng cũng có giữ con, khi mình làm hông kịp, thì ổng có giữ, nhưng mà ít thôi” (L.K. A – nữ - 47 tuổi). Như vậy, chăm sóc con cái là công việc chủ đạo của người phụ nữ trong gia đình. Còn người đàn ông chỉ hỗ trợ khi mà người vợ không làm xuể. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (200) 2015 24 Văn hóa Việt Nam vốn đề cao công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Nhưng khi cha mẹ đau ốm, con trai ít trực tiếp chăm sóc cha mẹ, chủ yếu là hỏi han, thăm nom. Nữ giới bất kể là con gái ruột hay con dâu đều phải chăm sóc cha mẹ già bởi vì người ta cho rằng phụ nữ thì khéo léo, chịu khó, cẩn thận nên rất thích hợp với công việc vốn đòi hỏi sự chỉn chu, tỉ mỉ này: “ trước khi chết bả đau cũng mấy tháng, mình phải lên xuống bệnh viện nuôi bả, thay phiên với thím út và đứa con của thím út nó. Vì phụ nữ mình chịu khó, chăm sóc chu đáo hơn. Ổng chỉ lên bệnh viện thăm bả rồi về hà chớ không ở lại nuôi” (H.T.B – nữ - 60 tuổi). Thực ra con trai hay con gái đều có bổn phận với cha mẹ già, nhưng tâm lý nêu trên là cơ sở tạo nên bất bình đẳng giới trong gia đình. 3.2. Công việc nội trợ Rất nhiều hình thức truyền thông trong xã hội đang vô tình củng cố quan niệm về “người giúp việc nhà” của phụ nữ. Hình ảnh người phụ nữ với công việc nội trợ trên các chương trình quảng cáo, cũng như trên các bộ phim truyền hình đã trở nên quen thuộc đến độ người ta xem đấy là công việc chỉ dành riêng cho phụ nữ. Nhưng không có cơ sở sinh học nào xác nhận rằng nam giới nói chung không có khả năng nấu ăn và làm việc nhà (dẫn lại theo Mai Huy Bích, 2009). Ở nông thôn Tây Nam Bộ nam giới làm việc nhà được đánh giá trong con mắt của cộng đồng như câu chuyện sau: “Thấy ở đây có người đàn ông mà cầm thau xuống giặt thau đồ cái người khác người ta nói liền. Người ta nói, trời ơi đàn ông mà xuống đó ngồi giặt đồ, rồi cái mấy ông đàn ông, ông này nói qua ông kia vậy đó, nói trời ơi đàn ông mà đi làm cái chuyện đàn bà. Bởi vậy nên mình gánh [giặt đồ] chứ ổng đâu có làm, thành ra người ta nói vậy đó rồi, mấy ổng đâu có làm đâu, một người làm cái mấy ông hai ba ông ngồi lại nói này kia” (L.K.A – nữ - 47 tuổi). Áp lực cộng đồng đối với hành vi làm việc nhà của nam giới khiến đôi khi nam giới muốn phụ giúp cho vợ cũng e ngại, sợ có người xung quanh bắt gặp và bàn tán. Tuy vậy, dựa vào đặc thù của từng gia đình, chúng ta cũng bắt gặp hình ảnh những ông chồng cặm cụi làm việc nhà, nấu nướng, chăm sóc con cái. Nhưng chỉ khi vợ bận công việc khác thì người chồng mới giúp vợ trong công việc nhà: “Ổng giăng lưới, em đem cá ra chợ ông Bầu bán. 5 giờ sáng ổng đi giăng lưới tới 5 giờ chiều về, cá ổng mang về 2-3 giờ khuya em đi chợ bán. Bán tới 5-6 giờ sáng là em về rồi. Ông Minh đi, em ở nhà giữ con, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa. Khi nào ổng về tới thì mình rộng cá để đó ngày hôm sau bán. Hai vợ chồng chỉ gặp nhau bắt đầu từ 5-6 giờ chiều cho tới lúc đi ngủ. Ổng đi giăng lưới em ở nhà lo hết việc nhà: con cái, cơm nước, ở nhà làm gì thì tự mình ên mà làm. 2 giờ khuya em đi bán rồi, ổng ở nhà nấu cơm, quét dọn nhà cửa, giặt giũ quần áo là ổng làm hết. Em về ổng mới đi giăng lưới. Em về giữ nhà với trông con cái thôi. 6 chiều giờ ổng về tới nhà thì em đã lo cơm nước xong rồi, vợ chồng ăn cơm xong là nghỉ ngơi. Làm như vậy cũng mấy năm. Ổng giỏi lắm, ổng mần việc ngoài đồng vậy đó, về nhà em làm không NGUYỄN TẤN DÂN – THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI 25 kịp ổng nhảy vô ổng tiếp hết trơn hà” (Đ.T.P – nữ - 58 tuổi). Nhằm giảm bớt gánh nặng công việc nhà, người mẹ thường chủ động giao việc cho các con nếu chúng đã làm được. Công việc mà con trai được giao thường là công việc cần tới sức khỏe như: nhổ cỏ, cắt lúa, trồng cây; ngược lại, con gái lại được mẹ hướng dẫn làm các công việc nhà như: nấu cơm, đi chợ, trông em, Những công việc ấy là một hình thức giáo dục về giới được duy trì ngay trong gia đình, tiếp nối thế hệ này qua thế hệ khác, càng củng cố chặt chẽ hơn về vai trò giới giữa nam và nữ. Chính bản thân người phụ nữ đã vô tình hợp thức hóa cho định kiến giới tiếp tục phát triển: “Con trai nhà tui nó ít có làm chuyện trong nhà lắm, làm chuyện ngoài đồng với chuyện ngoài xã hội không, tại vì đi học rồi đi làm về rảnh thì mần ở ngoài vườn ngoài đồng vậy thôi chứ trong nhà ít lắm Tại vì phong tục ông bà vậy đó, nữ thì phải làm trong nhà, nam thì làm chuyện ngoài vậy chớ tui cũng hông biết sao nữa Chứ con trai tui mình cũng thông cảm, con trai đi mần việc xã hội, rồi về hả mần việc đại khái như chặt cái cây hay gì thì đàn bà chặt hông được thì để nam chặt rồi hông lẽ bắt nó vô nhà mần nữa tội nghiệp nó” (N.T.K – nữ - 60 tuổi). Không chỉ vậy, phụ nữ cảm thấy không tin tưởng khi giao công việc nhà cho nam giới. Một số phụ nữ cho rằng các ông chồng làm việc nhà không được như mong muốn của họ, nên họ muốn tự tay làm thì mới hài lòng. Nhờ con trai phụ giúp việc nhà cũng vậy, nhiều phụ nữ cho rằng để họ làm thì mọi việc hoàn thành nhanh chóng hơn, vì sai bảo rất nhiều lần mà con trai vẫn chưa chịu làm. “Nấu cơm cũng vậy [] Ổng nói ổng đi nghĩa vụ thì hồi đó là ổng làm bên đầu bếp đó, ổng làm thì cũng được đó nhưng mà làm thì nó hông có ngon, thành ra thì hổng cho ổng làm riết rồi cũng quen nữa” (L.K.A – nữ - 47 tuổi). Trong gia đình gốc, công việc nội trợ được giao cho con dâu. Mẹ chồng tự cho mình quyền được nghỉ ngơi sau nhiều năm vất vả với công việc này. “Ổng ra ruộng thì mình đi theo làm cỏ, phụ này kia. Đi ruộng về thì mình nấu cơm nấu nước, rồi quần áo, con cái mình lo. Cái đó thì ổng không có lo, hồi đó là vậy không, []. Khi có con dâu, việc nhà như cơm nước, giặt giũ thì con dâu làm là chính, còn như nó bận đi đâu thì tui nấu []. Coi như đương nhiên con dâu phải làm, nhà có hai mẹ con không lẽ tui lớn tuổi mà nó để tui làm, tui chỉ phụ với nó thôi. Nó mắc công chuyện gì thì mình tiếp nó quét nhà hay làm cái gì đó. Không có con dâu thì mình phải làm” (N.T.L – nữ - 59 tuổi). 4. BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG SẢN XUẤT 4.1. Trong sản xuất nông nghiệp Trong sản xuất nông nghiệp sự phân công lao động giữa nam giới và nữ giới bộc lộ rõ rệt đối với từng công việc cụ thể. Nam giới thường đảm trách những công việc nặng nhọc hơn, như: làm đất, sạ lúa, đắp bờ, phun thuốc, Ngược lại, phụ nữ làm các công việc nhẹ nhàng, cần có sự cẩn thận, tỉ mỉ, chẳng hạn: ngâm giống, nhổ cỏ lúa, giặm lúa, cắt lúa. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (200) 2015 26 Một người phụ nữ kể: “Ổng dọn đất, sạ lúa, với thuốc sâu này kia, không có mướn ai làm hết một mình ổng làm hết, còn em chồng với em làm cỏ, giặm lúa, còn cắt lúa thì xúm vô cắt. Cả nhà xúm vô cắt cho kịp” (N.T.M.T – nữ - 50 tuổi). Một người nam kể: “Trước mà làm bằng công sức lao động của mình không, giờ làm đất hay thu hoạch lúa gì cũng là máy móc làm hết rồi. Tui chỉ bón phân, xịt thuốc, giặm lúa với lại đi thăm đồng thôi. [Việc đầu tư cho sản xuất, chọn thời vụ, chọn giống, mua phân bón thuốc trừ sâu] em làm không hà, em không bàn với vợ đâu vì nó có biết gì đâu. Thí dụ mùa vụ phải mua phân gì, bón phân gì, nó đâu có biết. Tui làm mới biết. Tui làm ruộng lâu lắm rồi, cũng như ruộng của cha mẹ để lại. Hồi đó nghỉ học về làm ruộng luôn cho tới bây giờ” (T.V.D – nam - 39 tuổi). Tuy nhiên ở một số ít gia đình có người chồng đi làm ở cơ quan, không có nhiều thời gian dành cho việc đồng áng thì một tay người vợ sẽ phải xoay xở từ chuyện làm đất, ngâm giống, sạ lúa, chăm sóc lúa, thu hoạch cho đến chuyện chăn nuôi, bếp núc và con cái. Ở những gia đình này, người phụ nữ phải bươn chải vất vả để mưu sinh, quán xuyến cả việc trong nhà và việc ngoài đồng; trong khi người chồng lại nhàn nhã hơn, chỉ làm việc ở cơ quan, chưa kể sau giờ làm việc anh ta có thể còn đàn đúm, nhậu nhẹt với bạn bè. “Tui quyết định luôn, thí dụ mấy ngày sạ phân, sạ mấy bao, rồi mấy ngày xịt thuốc đi thăm lúa coi lúa bệnh gì, chạy đi mua thuốc... Tại vì ổng đi dạy rồi ổng say xỉn hoài, rồi ổng mần tui không có vừa ý tại vì tui nói ờ giờ mười bữa cho phân gì được bao nhiêu vậy là sạ, vậy thì nhiều khi ổng rảnh thì ổng kéo ra ổng sạ không rảnh mướn người ta. Thí dụ mình đi thăm thấy sâu lá, thì lội đi mua thuốc rồi về thì ổng rảnh ổng đi tưới không rảnh thì kêu người ta tưới” (N.T.K – nữ - 60 tuổi). 4.2. Trong công việc khác Trong thời gian nông nhàn hoặc khi rảnh rỗi, các hộ gia đình còn làm thêm các công việc khác để kiếm thêm thu nhập như làm mướn, hoặc đi giăng lưới bắt cá. Nhưng những công việc này chỉ mang tính chất thời vụ trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. “Những ngày rảnh vào mùa nước ổng đi giăng lưới kiếm cá bán thêm. [] em ở nhà cơm nước, ổng đi giăng lưới về em đi bán cá, ổng nghỉ []. Trong khi ổng đi giăng lưới thì em dọn dẹp nhà cửa, cơm nước cho con cái, đi giặt đồ giặt đạc. Bán cá khoảng vài tiếng đồng hồ hà, [] 3-4 giờ chiều về tới nhà tiếp tục lo cơm nước, tắm rửa con cái. Ăn cơm chiều xong, em chơi với hai con một chút là cho hai đứa nó đi ngủ rồi, còn ông chồng thì đi chơi với bạn bè quanh xóm nè” (N.T.M.T – nữ - 50 tuổi). Phụ nữ tại địa phương thường nhận thêm những công việc đều đặn, thường xuyên, không quá vất vả, linh động để có thời gian chăm sóc con cái, làm công việc nhà. “Mình lột sen theo ký lô sen lụa, trước đây một ký có 12.000 đồng, còn bây giờ được 15.000 đồng. Hột sen nhận về gọt tách bỏ vỏ, sau đó chà vỏ lụa, ngâm rồi mới thụt nhụy sau cùng là cân ký. Một ngày lột trung bình được 3 ký, khoảng NGUYỄN TẤN DÂN – THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI 27 45.000 đồng. Một tháng làm chừng hai mươi ngày tại vì mình trừ hao những ngày mình đi đám tiệc, nghỉ ngơi. Cũng đủ chi cho tiền cà phê, đường, bột ngọt này kia” (P.T.L – nữ - 59 tuổi). 3. KẾT LUẬN Tư tưởng trọng nam hơn nữ, đề cao tính gia trưởng của nam giới trong gia đình còn tồn tại dai dẳng ở nông thôn. Người đàn ông gia trưởng quan niệm người phụ nữ phải đảm nhận công việc trong gia đình, phải phục tùng chồng. Quan niệm này cản trở phụ nữ thuyết phục và lôi cuốn chồng cùng tham gia vào công việc gia đình (nội trợ, chăm sóc con cái). Nguyên nhân quan trọng nhất cản trở sự phân chia bình đẳng công việc trong gia đình ở nông thôn hiện nay là do quan niệm xã hội cho “công việc nội trợ là thiên chức của phụ nữ”. Không những thế, xã hội còn đánh giá thấp ý nghĩa của các công việc gia đình làm cho nam giới thiếu động lực trong việc chia sẻ công việc gia đình với phụ nữ. Vấn đề giải phóng phụ nữ trong gia đình chưa được đặt một cách tương xứng với yêu cầu đổi mới kinh tế, xã hội, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của phụ nữ nông thôn còn thấp so với nam giới nên ít có điều kiện và cơ hội tìm kiếm việc làm có thu nhập cao để có thể độc lập, tự chủ về kinh tế, từ đó mới có quyền quyết định trong gia đình. Các chính sách của Đảng, Nhà nước và hệ thống luật pháp đã đảm bảo cho phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, từ chính sách đến thực hiện vẫn còn một khoảng cách khá lớn, nhất là trong gia đình, vì vẫn còn những cơ sở hình thành bất bình đẳng giới trong gia đình cũng như còn thiếu các biện pháp chế tài hoặc giám sát chặt chẽ đối với vấn đề bất bình đẳng giới. CHÚ THÍCH (1) Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ hay Mục tiêu Thiên niên kỷ được ghi trong bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc tại Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ, năm 2000 ở New York, Mỹ. (2) Lời giới thiệu của Công ước Quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, bản dịch và giới thiệu của Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, tái bản lần thứ 5 có bổ sung, chỉnh lý, Hà Nội, tháng 9/2005. (3) Được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2007. (4) Được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21/11/2007. (5) Theo Quyết định số 2351/QĐ-TTg, ngày 24/12/2010, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020. (6) Khái niệm này hiểu theo nghĩa thông thường là từ một gia đình bố mẹ hình thành các gia đình khác, như gia đình của con cháu. Nếu phân loại gia đình thì chia ra gia đình hạt nhân, gia đình ghép chung, gia đình mở rộng. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (200) 2015 28 TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Ban Chỉ đạo Điều tra dân số và nhà ở Trung ương. 2010. Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009. 2010. Hà Nội: Nxb. Thống kê. 2. Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF). 2008. Kết quả điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006, Hà Nội. 3. Hoffman, L. W. & Hoffman, M. L. 1973. The Value of Children to Parents. In Fawcett, J. T. (ed.) Psychological Perspectives on Population (pp. 19–76). New York: Basic Books. 4. Kohlmann, A. 2000. Value of Children Revisited – Ökonomische, Soziale und Psychologische Einflußfaktoren auf Fertilitätsentscheidungen in der BRD, Japan und der Türkei. Chemnitz: Diss. TU Chemnitz. 5. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2006. Luật Bình đẳng giới. Số 73/2006/QH11 ngày 29/11/2006. 6. Tổng cục Thống kê. 2010. Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009. Hà Nội: Nxb. Thống kê.
File đính kèm:
- thuc_trang_binh_dang_gioi_trong_gia_dinh_nguoi_viet_nghien_c.pdf