Vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học xã hội

Xã hội càng phát triển thì vai trò của

Khoa học xã hội (KHXH) ngày càng tăng, vì

vậy đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản trong

KHXH rất quan trọng và cấp bách. Bài viết

này đề cập hai vấn đề: (1) Quan niệm về

nghiên cứu cơ bản trong KHXH; (2) Đề xuất

một số giải pháp nhằm đẩy mạnh nghiên cứu

cơ bản trong KHXH.*

pdf 5 trang yennguyen 5260
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học xã hội

Vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học xã hội
 VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CƠ BẢN 
TRONG KHOA HỌC XÃ HỘI 
DƯƠNG PHÚ HIỆP* 
Xã hội càng phát triển thì vai trò của 
Khoa học xã hội (KHXH) ngày càng tăng, vì 
vậy đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản trong 
KHXH rất quan trọng và cấp bách. Bài viết 
này đề cập hai vấn đề: (1) Quan niệm về 
nghiên cứu cơ bản trong KHXH; (2) Đề xuất 
một số giải pháp nhằm đẩy mạnh nghiên cứu 
cơ bản trong KHXH.* 
I. QUAN NIỆM VỀ NGHIÊN CỨU CƠ 
BẢN TRONG KHXH 
1. Nghiên cứu cơ bản là gì ? 
Hiện nay, chưa có cách hiểu thống nhất 
về khái niệm nghiên cứu cơ bản, tuy nhiên, 
có thể rút ra những điểm chung khi bàn về 
vấn đề này như sau: Nghiên cứu cơ bản dù 
là nghiên cứu lý thuyết hay nghiên cứu thực 
nghiệm đều nhằm thu được những tri thức 
mới về các quy luật của thế giới quanh ta, 
trước mắt không nhằm mục đích ứng dụng 
thực tế. 
2. Nghiên cứu cơ bản trong KHXH 
Khái niệm nghiên cứu cơ bản nói trên 
cũng áp dụng cho việc nghiên cứu cơ bản 
trong KHXH, nghĩa là bằng nghiên cứu lý 
thuyết hay nghiên cứu thực nghiệm, bằng 
hoạt động sáng tạo của chủ thể nghiên cứu, 
nó phải thu được những tri thức mới về xã 
hội nói chung, về từng lĩnh vực của xã hội 
nói riêng, trong đó có những tri thức về các 
hiện tượng xã hội, các sự kiện xã hội, các 
hoạt động xã hội, các quan hệ xã hội v.v..., 
* GS.TS. Viện Khoa học xã hội Việt Nam 
đặc biệt là các quy luật vận động và phát 
triển xã hội, nhằm nhận thức sâu sắc hơn về 
xã hội và cải tạo tốt hơn đối với xã hội, 
nhưng chưa có mục đích thực tiễn trước 
mắt. 
Một nghiên cứu trong KHXH không phát 
hiện được cái mới, không thu được tri thức 
mới, không mang lại sự hiểu biết mới về xã 
hội thì không được coi là nghiên cứu cơ bản. 
- Có loại nghiên cứu cơ bản thuần túy, tức 
là nghiên cứu về bản chất của sự vật để nâng 
cao nhận thức mà chưa bàn đến ý nghĩa ứng 
dụng. Còn loại nghiên cứu cơ bản định 
hướng là những nghiên cứu cơ bản đã dự 
định trước mục đích ứng dụng. 
- Người ta không phân loại khoa học cơ 
bản và khoa học ứng dụng, mà chỉ phân biệt 
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng 
trong khoa học. Nghiên cứu khoa học luôn 
có sự đan xen giữa nghiên cứu cơ bản với 
nghiên cứu ứng dụng. Vì vậy, việc phân loại 
nghiên cứu cơ bản trong KHXH và nghiên 
cứu ứng dụng chỉ có tính tương đối. Mỗi 
công trình khoa học thường đan xen hai 
phần: phần đi sâu vào cơ sở lý luận và cơ sở 
phương pháp luận thường thiên về nghiên 
cứu cơ bản, còn phần đề xuất kiến nghị với 
Đảng và Nhà nước là phần thiên về ứng 
dụng. 
Có những môn KHXH nặng về nghiên 
cứu cơ bản như: Triết học, Chính trị học, 
Đạo đức học, Kinh tế - chính trị học, Tâm lý 
học, Lý luận văn học v.v... Có những môn 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2012 4 
KHXH nặng về nghiên cứu ứng dụng như: 
Xã hội học, các kinh tế học chuyên ngành, 
Khảo cổ học, Dân tộc học, v.v... Tuy vậy, 
trong bất kỳ môn KHXH nào cũng có cả 
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, 
có cả nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu 
thực nghiệm, có cả cơ sở lý luận và cơ sở 
phương pháp luận, có cả phương pháp 
nghiên cứu và các cách tiếp cận khác nhau. 
Có như vậy thì bản thân KHXH mới phát 
triển được và mới phục vụ cho sự phát triển 
của xã hội, trong đó nghiên cứu cơ bản đóng 
vai trò làm nền tảng cho mọi quá trình 
nghiên cứu và ứng dụng. Vì nó cung cấp cho 
xã hội hệ thống các tri thức cơ bản; làm cơ 
sở để xây dựng các lý thuyết và xây dựng 
các ngành KHXH; góp phần nâng cao dân 
trí; làm cơ sở để đổi mới các chương trình 
giáo dục và đào tạo về các bộ môn KHXH. 
II. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP 
NHẰM ĐẨY MẠNH NGHIÊN CỨU CƠ 
BẢN TRONG KHXH 
1. Nhận thức lại vai trò của KHXH 
Nhìn lại lịch sử dân tộc, chúng ta thấy ở 
Việt Nam chưa có các nhà tư tưởng xây 
dựng được học thuyết có tầm ảnh hưởng khu 
vực và thế giới, mà thường là vay mượn, sao 
chép các học thuyết của nước ngoài. 
Do biết kế thừa những giá trị văn hóa của 
phương Đông và phương Tây, Hồ Chí Minh 
đã trở thành nhà tư tưởng lớn có tầm ảnh 
hưởng vượt ra ngoài biên giới. Tuy nhiên, 
do mang nặng tư duy giáo điều và biệt phái 
và do nhiều nguyên nhân khác nữa, nên 
KHXH Việt Nam phát triển chậm trễ. Trong 
quá trình đổi mới, KHXH có nhiều khởi sắc, 
nhưng nói chung vẫn trong tình trạng phát 
triển chậm trễ. Nhận thức của chúng ta tuy 
có đổi mới, nhưng vẫn chưa thấy hết tầm 
quan trọng của KHXH. 
Do có đường lối đổi mới dựa trên những 
luận cứ khoa học mà sự nghiệp đổi mới trong 
25 năm qua đã thành công. Có thể nói rằng, 
nếu không có KHXH đổi mới sẽ không thể 
có thực tiễn đổi mới thành công. Do có sự 
tìm tòi lý luận và sự đóng góp của những 
người làm công tác nghiên cứu KHXH, nên 
đổi mới đã có được những thành tựu quan 
trọng. Ai cũng biết rằng lý luận luôn soi 
đường cho hành động, một khi hành động 
thiếu sự chỉ đạo của lý luận sẽ trở nên mù 
quáng và đi đến thất bại. Những tư tưởng tiên 
tiến của KHXH là động lực tinh thần to lớn 
cho sự tiến bộ của nhân loại. Nó góp phần 
giải quyết những vướng mắc và những vấn 
đề mà loài người phải đối mặt. KHXH giúp 
cho con người nhận thức đúng và cải tạo 
thành công thế giới xung quanh và bản thân 
mình. Chính KHXH đã giải thích các sự kiện, 
các hiện tượng của thế giới vô cùng phức tạp 
và phát hiện ra các quy luật của đời sống xã 
hội để con người cải tạo xã hội theo các quy 
luật đó. 
Muốn nhận thức đúng và cải tạo thành 
công đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa lý 
luận và thực tiễn, trước tiên phải tôn trọng 
thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tổng kết 
thực tiễn, nâng thực tiễn lên đạt trình độ cao 
của lý luận để từ đó quay lại chỉ đạo thực 
tiễn. Đó cũng chính là con đường phát triển 
của KHXH. 
Nếu không coi trọng vai trò của KHXH 
sẽ không thể thực hiện được những quyết 
sách đúng đắn. Một khi KHXH không được 
phát huy cao độ thì khó có thể thực hiện việc 
lãnh đạo và quản lý xã hội một cách khoa 
học. Nếu không có sự phổ cập rộng rãi tri 
thức KHXH, thì làm sao có thể hy vọng phát 
huy được tính tự giác của con người để chấn 
hưng đất nước. 
Vấn đề nghiên cứu cơ bản... 5 
Hiện nay, KHXH Việt Nam đang đứng 
trước tình trạng lạc hậu về nhiều mặt, không 
những lạc hậu so với trình độ phát triển của 
nhiều nước, mà còn lạc hậu so với sự biến 
đổi to lớn và nhanh chóng của thực tiễn xã 
hội. Trong khi đó trên thế giới đã và đang 
xuất hiện nhiều ngành KHXH mới như 
Chính trị học, Hành chính học, Khoa học 
quản lý, Văn hóa học, v.v... 
Rất tiếc là nhận thức của chúng ta còn 
thiên về khoa học tự nhiên, khoa học công 
nghệ, chưa thấy hết tầm quan trọng của 
KHXH và do đó chưa có sự quan tâm thỏa 
đáng. 
2. Phải trọng dụng nhân tài KHXH 
Muốn phát triển KHXH phải làm tốt công 
tác phát triển nhân tài KHXH. Nhân tài ở 
nước ta, nhất là nhân tài KHXH chưa được 
coi trọng đúng mức. Có lúc đã đồng nhất 
KHXH với chính trị, do đó những nhà lãnh 
đạo chính trị chắc phải là những người tài 
năng về KHXH. Hình như KHXH bị đối xử 
có phần khắt khe, nên nhân tài trong lĩnh 
vực này ít phát huy được sự sáng tạo của 
mình, ít đem lại những tri thức mới mà 
thường là làm công tác tuyên huấn, thuyết 
minh, ca ngợi nghị quyết. Thậm chí có 
người đang làm nghiên cứu, giảng dạy 
KHXH, nhưng do muốn thăng quan tiến 
chức nhanh, nên rời bỏ lĩnh vực KHXH để 
đi vào con đường quan chức, vì họ nghĩ rằng 
chức vụ càng cao thì chắc là tài năng càng 
lớn. Vì vậy mới có vấn nạn chạy chức chạy 
quyền. Do có hiện tượng nói trên nên trong 
lĩnh vực KHXH vốn đã hiếm nhân tài, nay 
lại ngày càng hiếm hoi hơn. 
Trọng dụng nhân tài, trước hết phải trọng 
dụng trí thức, trong đó có trí thức KHXH. 
Trọng dụng trí thức, trước hết là thực hiện 
đúng chính sách “có tài, có đức, có chức, có 
quyền”, không để xảy ra tình trạng không 
tài, không đức mà vẫn có chức, có quyền, do 
lý lịch hoặc chạy chọt, móc ngoặc, ô dù, bè 
cánh, nịnh bợ, chứ không phải do tài năng 
mà có. 
Để phát triển KHXH, cần đẩy mạnh công 
tác phát hiện, đào tạo, sử dụng, đãi ngộ và 
tôn vinh nhân tài. Chỉ có trọng dụng nhân tài, 
chúng ta mới phát triển được khoa học xã hội 
và trên cơ sở đó mới hy vọng xây dựng được 
lý thuyết về KHXH. 
3. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KHXH 
Trước đây, thế giới bị phân chia thành hai 
hệ thống đối lập xã hội chủ nghĩa (XHCN) 
và tư bản chủ nghĩa (TBCN), hai cực đối 
đầu do Liên Xô và Mỹ đứng đầu, tạo ra bầu 
không khí chiến tranh lạnh nặng nề. Ngày 
nay, tuy vẫn còn chiến tranh cục bộ, bầu 
không khí khủng bố căng thẳng ở nhiều nơi 
đe dọa sự yên bình của nhân loại, nhưng bao 
trùm vẫn là hòa bình, hợp tác và phát triển. 
Có hòa bình mới có cơ hội hợp tác và có 
hợp tác mới có cơ hội phát triển, trong đó có 
hợp tác về KHXH. 
Mặc dù KHXH Việt Nam đã góp phần 
quan trọng vào sự nghiệp đổi mới đất nước, 
trước hết là đổi mới tư duy, nhưng trong 
những năm qua KHXH Việt Nam vẫn chưa 
khắc phục được tình trạng phát triển chậm 
trễ. Một trong những nguyên nhân của tình 
trạng đó là chưa đẩy mạnh, chưa chủ động 
hội nhập quốc tế. Để khắc phục sự phát triển 
chậm trễ của KHXH Việt Nam, chúng ta 
phải có nhiều giải pháp. Ở đây chỉ nói đến 
sự cần thiết phải hội nhập quốc tế của 
KHXH. Tăng cường hội nhập quốc tế về 
KHXH là điều kiện không thể thiếu nhằm 
phát triển KHXH để nó thật sự trở thành 
động lực của sự phát triển đất nước. Đẩy 
mạnh hội nhập quốc tế về KHXH sẽ giúp 
Việt Nam tranh thủ các nguồn lực từ bên 
ngoài, kết hợp với nội lực, tạo điều kiện tốt 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2012 6 
nhất cho sự phát triển của đất nước. Hợp tác 
quốc tế là cơ sở để các nhà KHXH trên thế 
giới hiểu biết lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau 
trong việc cùng nghiên cứu, giảng dạy, trao 
đổi thông tin, tri thức, kinh nghiệm với 
nhau. Qua đó, các nhà KHXH Việt Nam có 
điều kiện thuận lợi để nắm bắt cái hay, cái 
tốt của bên ngoài. 
Sự phát triển KHXH của mỗi nước vừa 
phải kế thừa di sản của cha ông để lại, vừa 
phải tiếp thu thành tựu của thế giới và đóng 
góp không chỉ cho sự phát triển KHXH của 
nước mình, mà còn đóng góp cho sự phát 
triển KHXH của nhân loại, làm giàu cho cả 
cái riêng lẫn cái chung. 
Trước thời kỳ đổi mới, do quan niệm 
KHXH gắn rất chặt với ý thức hệ, cho nên 
các tư tưởng, lý thuyết về xã hội của phương 
Tây chúng ta không đặt vấn đề học tập, trao 
đổi mà chỉ có đấu tranh, phê phán. Nếu như 
có hợp tác, thì chủ yếu chỉ hợp tác với các 
nước XHCN anh em, vì họ có cùng chế độ 
chính trị - xã hội và cùng hệ tư tưởng. Trong 
quá trình hợp tác với các nước XHCN, các 
nhà KHXH Việt Nam thường mang nặng tư 
tưởng tự ti, ỷ lại, chỉ trông cậy vào sự giúp 
đỡ của các nước anh em về quan điểm, lập 
trường, về cách tiếp cận, về kiến thức, về 
đào tạo và cả về kinh phí nữa. Cho nên dẫn 
tới tình trạng khi họ ca ngợi cái gì thì ta 
cũng ca ngợi theo, khi họ đấu tranh phê 
phán tư tưởng hay lý thuyết nào đó về 
KHXH ta cùng ùa theo đấu tranh, phê phán 
theo lập trường, quan điểm có khi không 
phải của ta. 
Do chỉ hợp tác với các nước XHCN, nên 
sách báo, tài liệu nhập vào nước ta phần lớn 
là những sách báo mác - xít, còn những sách 
báo, tài liệu từ các nước khác nhập vào Việt 
Nam rất ít, nên không tránh khỏi sự hiểu biết 
của chúng ta vừa phiến diện, vừa lệch lạc về 
thế giới, về thời đại, về con đường phát 
triển, về KHXH của các nước. Đó cũng là 
một phần hạn chế của KHXH Việt Nam. 
Hiện nay, các nhà KHXH Việt Nam 
không nên nhìn nhận thế giới theo con mắt 
hẹp hòi, khắc phục thái độ giáo điều, cứng 
nhắc, đặc biệt là phải nhận thức lại chủ 
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội dân chủ , 
không nên chỉ thấy họ là thối nát, phản 
động, không có triển vọng, không có gì đáng 
học tập, tham khảo. 
Với bối cảnh trong nước và quốc tế hiện 
nay, chúng ta cần đổi mới tư duy về hội 
nhập quốc tế, cần tích cực, chủ động lựa 
chọn đối tác, lựa chọn nội dung và hình thức 
hợp tác, lựa chọn thời gian và mức độ hợp 
tác. Nên đi từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, 
từ một lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực của 
KHXH, từ một nước đến nhiều nước. Hợp 
tác, hội nhập quốc tế về KHXH phải đạt hiệu 
quả cụ thể, phải có sự cân nhắc, tính toán cẩn 
thận, tránh hình thức, phô trương hoặc được 
chăng hay chớ. Sống trong thế giới hiện đại, 
nếu không hợp tác, hội nhập quốc tế, thì 
KHXH Việt Nam không những chậm phát 
triển, mà có khi còn trở nên lạc hậu, lạc lõng 
trong thế giới đó. Hội nhập quốc tế về 
KHXH lúc này là cần thiết hơn lúc nào hết; 
điều kiện trong nước và quốc tế đã chín 
muồi, tất nhiên không phải chỉ có mặt thuận 
lợi, nhưng vấn đề quan trọng là chúng ta có 
quyết tâm, chủ động, tích cực hội nhập quốc 
tế để phát triển KHXH Việt Nam hay không? 
4. Cần có đầu tư cho nghiên cứu cơ bản 
trong KHXH 
Nhà nước ta đã nhận thức được rằng phát 
triển khoa học và công nghệ là quốc sách 
hàng đầu, đầu tư cho khoa học và công nghệ 
là đầu tư phát triển, do đó dành ưu tiên hàng 
đầu cho việc bố trí ngân sách khoa học và 
công nghệ. Hiện nay, Nhà nước đã dành 2% 
Vấn đề nghiên cứu cơ bản... 7 
ngân sách để đầu tư phát triển khoa học và 
công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các 
nhà khoa học Việt Nam triển khai nghiên 
cứu. 
Tuy nhiên, còn một số vấn đề sau đây cần 
được tiếp tục giải quyết: 
Thứ nhất, cần xác định tỉ lệ đầu tư hợp lý 
giữa các lĩnh vực khoa học - khoa học xã 
hội, khoa học tự nhiên và khoa học công 
nghệ. Do chưa thấy hết vai trò của KHXH, 
nên hiện nay tỉ lệ đầu tư dành cho KHXH 
chưa thật sự hợp lý. 
Thứ hai, cần phải đổi mới cơ chế phân 
bố, sử dụng và quản lý tài chính đối với 
khoa học - công nghệ nói chung, KHXH nói 
riêng, giảm bớt sự phiền hà đối với các nhà 
khoa học. 
Thứ ba, phải xây dựng chế độ lương mới 
thích hợp với công tác nghiên cứu khoa học, 
tránh xếp lương của các nhà khoa học vào 
ngạch bậc hành chính, sự nghiệp, tránh chủ 
nghĩa bình quân để khuyến khích những 
người làm khoa học yên tâm, phấn khởi làm 
công việc sáng tạo của mình. 
Thứ tư, phải có cơ chế quản lý, và sử 
dụng kinh phí mà Nhà nước dành cho khoa 
học một cách hiệu quả, chứ không trả lại 
ngân sách như đã từng xảy ra trước đây. Ở 
nước ta có hàng chục vạn người có trình độ 
trên đại học đang cần kinh phí để nghiên 
cứu, thì riêng năm 2007, Bộ Khoa học Công 
nghệ đã trả lại cho ngân sách nhà nước 125 
tỉ đồng. Một việc làm đầy tính chất nghịch 
lý trong quản lý khoa học. 
5. Cần có quy chế dân chủ nghiên cứu 
và sáng tạo trong KHXH 
Dân chủ thật sự, tự do tư tưởng là tiền đề 
quan trọng để phát triển KHXH. Quy chế 
dân chủ trong nghiên cứu và sáng tạo khoa 
học được Đại hội IX (năm 2001) của Đảng 
ta đã chủ trương xây dựng và thực hiện, 
nhưng không hiểu lý do vì sao mà trong vấn 
đề này chỉ nói chứ không làm. Các biểu hiện 
quy kết, quy chụp về quan điểm, lập trường, 
về động cơ chính trị làm phương hại đến 
sinh mệnh chính trị và học thuật của các nhà 
khoa học, đặc biệt là KHXH, tuy không phổ 
biến và nặng nề như trước đây, nhưng vẫn 
còn là một nỗi ám ảnh làm triệt tiêu năng lực 
tìm tòi sáng tạo, hạn chế khát vọng và hoài 
bão cống hiến cho sự phát triển khoa học 
nước nhà. 
Vì sao công tác lý luận và nghiên cứu 
KHXH ở nước ta chưa đáp ứng được yêu 
cầu của thực tiễn phát triển đất nước. Có 
nhiều nguyên nhân để giải thích tình trạng 
bất cập này, nhưng có thể nói một trong 
những nguyên nhân quan trọng là vấn đề 
dân chủ và tự do tư tưởng trong nghiên cứu 
và sáng tạo khoa học chưa được giải quyết 
rõ ràng. Vì thế, một số nhà nghiên cứu tiếp 
tục “ăn theo nói leo”, thuyết minh nghị 
quyết, ca ngợi những bài viết, bài nói của 
lãnh đạo, không dám nói những điều mình 
nghĩ, vì nói thẳng, nói thật là dại dột, dễ bị 
“chụp mũ”. 
Theo tôi, để làm KHXH cần có 4 tiền đề 
quan trọng: (1) Phải có tiền để sống, để mua 
sách, đi khảo sát thực tế, hội thảo khoa học, 
v.v...; (2) Phải có tự do tư tưởng hoặc nói 
như Đặng Tiểu Bình là phải được giải phóng 
tư tưởng và thực sự cầu thị; (3) Phải giao 
việc cho người có tài; (4) Các nhà khoa học 
phải được tôn trọng và tin tưởng. Bốn tiền 
đề đó gắn bó chặt chẽ với nhau, không thể 
thiếu một tiền đề nào. Lúc đó, KHXH Việt 
Nam nhất định sẽ phát triển mạnh, nghiên 
cứu cơ bản trong KHXH sẽ được tăng 
cường. 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_nghien_cuu_co_ban_trong_khoa_hoc_xa_hoi.pdf