Vốn xã hội cho sự phát triển ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Vốn xã hội là thành tố đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển

thịnh vượng của mỗi quốc gia. Việt Nam có lịch sử lâu đời, có nguồn vốn xã

hội phong phú được tích lũy qua nhiều thế hệ. Nguồn vốn xã hội này đã giúp

dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa và chiến thắng các thế lực bên ngoài; hiện

nay đang tiếp tục đóng góp tích cực vào quá trình phát triển. Bài viết phân tích

nguồn vốn xã hội, phát hiện điểm mạnh và điểm yếu của nó, đề xuất giải pháp

xã hội nhằm phát huy nguồn vốn xã hội của toàn dân tộc cho sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước.

pdf 9 trang yennguyen 2420
Bạn đang xem tài liệu "Vốn xã hội cho sự phát triển ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vốn xã hội cho sự phát triển ở Việt Nam hiện nay

Vốn xã hội cho sự phát triển ở Việt Nam hiện nay
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 42 
VỐN XÃ HỘI CHO SỰ PHÁT TRIỂN 
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
NGUYỄN ĐỨC CHIỆN * 
Tóm tắt: Vốn xã hội là thành tố đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển 
thịnh vượng của mỗi quốc gia. Việt Nam có lịch sử lâu đời, có nguồn vốn xã 
hội phong phú được tích lũy qua nhiều thế hệ. Nguồn vốn xã hội này đã giúp 
dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa và chiến thắng các thế lực bên ngoài; hiện 
nay đang tiếp tục đóng góp tích cực vào quá trình phát triển. Bài viết phân tích 
nguồn vốn xã hội, phát hiện điểm mạnh và điểm yếu của nó, đề xuất giải pháp 
xã hội nhằm phát huy nguồn vốn xã hội của toàn dân tộc cho sự nghiệp công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước. 
Từ khóa: vốn xã hội, phát triển. 
Đặt vấn đề 
Vốn xã hội là một thành tố đặc biệt 
quan trọng đối với sự phát triển thịnh 
vượng của mỗi quốc gia. Nhiều quốc gia 
trên thế giới (các quốc gia phương Tây 
và một số quốc gia ở Châu Á như Nhật 
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) trong 
những thập kỷ vừa qua sở dĩ là do Chính 
phủ các quốc gia này đã đánh giá và xác 
định đúng đặc điểm của vốn xã hội, tìm 
hiểu ưu thế và thiếu hụt của nó, trên cơ 
sở đó, sử dụng nó một cách có hiệu quả 
phục vụ cho quá trình phát triển xã hội. 
Ở Việt Nam, vốn xã hội cũng đã 
được quan tâm xem xét và đánh giá toàn 
diện ngay từ những ngày đầu cách 
mạng. Vốn xã hội đã được khai thác, 
huy động hiệu quả nên dẫn đến thành 
công của Cách mạng tháng Tám năm 
1945. Vốn xã hội của dân tộc tiếp tục 
được phát huy một cách có hiệu quả 
trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội 
ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ 
cứu nước ở miền Nam. Trong thời kỳ 
này, Đảng và Nhà nước ta nhận thức rất 
sâu sắc về sức mạnh nguồn vốn toàn xã 
hội, đã phát động nhiều phong trào xã 
hội nhằm khơi dậy và kích thích vốn xã 
hội phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và 
thống nhất đất nước. Có thể khẳng định 
rằng, sự đánh giá chính xác đặc điểm 
nguồn vốn của toàn xã hội lúc bấy giờ, 
sử dụng và huy động nó một cách hiệu 
quả đã giúp Việt Nam giải phóng miền 
Nam thống nhất đất nước năm 1975.(*) 
Nguồn vốn xã hội của quốc gia một 
lần nữa được đánh giá lại, sử dụng hiệu 
(*) Tiến sĩ, Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm 
Khoa học xã hội Việt Nam. 
Vốn xã hội cho sự phát triển ở Việt Nam hiện nay 
 43 
quả hơn trong điều kiện và bối cảnh đất 
nước Đổi mới. Đại hội Đảng Cộng sản 
Việt Nam lần thứ VI (1986) đánh dấu 
thời kỳ Việt Nam cải tổ và sử dụng hiệu 
quả các nguồn lực, trong đó có vốn xã 
hội. Rất nhiều nguồn vốn xã hội không 
được đánh giá đúng, không được huy 
động tham gia vào quá trình phát triển ở 
giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa quan liêu 
bao cấp đã được xem xét và kêu gọi 
tham gia trong thời kỳ đổi mới. Điều 
này góp phần mang lại những thay đổi 
nhanh chóng trên mọi mặt của đời sống 
xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đánh 
giá toàn diện thì nhiều đặc điểm của vốn 
xã hội, ưu điểm và hạn chế của nó vẫn 
chưa được hiểu đúng. Chính vì vậy, việc 
tìm hiểu và đánh giá đúng đặc điểm của 
nguồn vốn xã hội, phát hiện điểm mạnh 
và điểm yếu của nó sẽ rất hữu ích cho 
công cuộc xây dựng và phát triển đất 
nước, nhanh chóng hoàn thành mục tiêu 
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, 
dân chủ, văn minh. 
1. Khái niệm và đặc điểm chung về 
vốn xã hội của Việt Nam 
Vốn xã hội là một thuật ngữ được đề 
cập nhiều trong giới khoa học xã hội 
(Kinh tế học, Chính trị học, và Xã hội 
học) phương Tây từ những thập niên 
đầu thế kỷ XX trong bối cảnh kinh tế 
các quốc gia này bùng phát mạnh mẽ. 
Mặc dù thuật ngữ này được bàn luận sôi 
nổi từ nhiều hướng tiếp cận khác nhau, 
nhưng cho đến nay, dường như giới học 
thuật quốc tế vẫn chưa đi đến một định 
nghĩa thống nhất. Ở Việt Nam, thuật 
ngữ vốn xã hội được giới khoa học xã 
hội nhắc đến khoảng một thập kỷ gần 
đây từ nhiều hướng tiếp cận khác nhau. 
Trong bài viết này, chúng tôi không có ý 
định bao quát khái niệm vốn xã hội theo 
các góc nhìn nêu trên, mà chỉ giới hạn 
nội dung trình bày vốn xã hội theo quan 
điểm các nhà xã hội học; qua đó nhận 
diện đặc điểm chung về vốn xã hội của 
Việt Nam. 
1.1. Khái niệm vốn xã hội 
Khái niệm “vốn xã hội” xuất hiện vào 
những thập niên đầu thế kỷ XX trong 
công trình của nhà giáo dục người Mỹ 
Lyda Judson Hanifan(1). Thuật ngữ này 
thu hút sự quan tâm và bàn luận sôi nổi 
của giới xã hội học phương Tây trong 
khoảng ba thập kỷ gần đây. 
Vào đầu những năm 1980, trong công 
trình “The Forms of Capital”, Pierre 
Bourdieu là nhà xã hội học, nhân học 
người Pháp đã phát triển khái niệm 
“vốn” hay “tư bản” (capital) của lĩnh 
vực kinh tế vào lĩnh vực Xã hội học để 
phân tích quá trình lưu thông của các 
loại tài sản khác nhau trong không gian 
xã hội. Ngoài vốn kinh tế, Bourdieu còn 
phân biệt ba loại vốn nữa là vốn văn 
hóa, vốn xã hội và vốn biểu tượng. Qua 
việc phân loại vốn, Bourdieu đi đến định 
nghĩa về vốn xã hội. Theo ông, vốn xã 
(1) Giddens, Anthony (1996), Social Theory 
and Modern Sociology, Stanford, Stanford 
University Press. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 44 
hội là một “mạng lưới lâu bền bao gồm 
các mối liên hệ quen biết nhau và nhận 
ra nhau, những mối liên hệ này ít nhiều 
đã được định chế hóa”. Bourdieu cho 
rằng, “khối lượng vốn xã hội của một 
cá nhân cụ thể nào đó phụ thuộc vào 
mức độ liên hệ rộng hay hẹp mà anh ta 
có thể huy động được trong thực tế và 
vào khối lượng vốn (vốn kinh tế, vốn 
văn hóa hay vốn biểu tượng) của từng 
người mà anh ta có liên hệ.” Bourdieu 
quan niệm các loại vốn nói trên có thể 
chuyển hóa lẫn nhau(2). 
Theo cách nhìn của Pierre Bourdieu, 
vốn xã hội là một thuộc tính của mỗi cá 
nhân trong xã hội và bất cứ ai cũng có 
thể khai thác nhằm đem lại các lợi ích 
kinh tế thông thường. Vốn xã hội của 
một cá nhân chính là mối quan hệ, danh 
tiếng của cá nhân đó trong xã hội và 
thực chất là mạng lưới xã hội của cá 
nhân đó, trong các chiều cạnh quan hệ 
của một cá nhân. Theo nghĩa này, bất cứ 
ai có mạng lưới quen biết (trực tiếp hay 
gián tiếp) lớn sẽ có nhiều cơ hội trong 
việc tìm kiếm và khẳng định vị thế hoặc 
vị trí của họ trong xã hội. Bourdieu cho 
rằng, mỗi cá nhân là sản phẩm của lịch 
sử, của giai cấp; họ có những bất lợi và 
lợi thế mà mạng lưới của họ mang lại. 
Cá nhân có thể tạo thêm vốn xã hội để 
chuyển hoá thành vốn kinh tế. Chính 
việc thiếu vốn xã hội là nguyên nhân để 
một cá nhân chịu sự chênh lệch với cá 
nhân khác trong xã hội. 
Vốn xã hội tiếp tục được James 
Coleman, nhà xã hội học người Mỹ 
quan tâm bàn luận cuối những năm 
1980. James Coleman đã định nghĩa về 
vốn xã hội khác với quan điểm của 
Bourdieu. Theo Coleman, “vốn xã hội 
bao gồm những đặc trưng trong đời 
sống xã hội như sau: các mạng lưới xã 
hội, các chuẩn mực và sự tin cậy trong 
xã hội – là những cái giúp cho các thành 
viên có thể hành động chung với nhau 
một cách có hiệu quả nhằm đạt tới 
những mục tiêu chung”(3). 
Trong quan niệm của Coleman, vốn 
xã hội về cơ bản là lòng tin của con 
người đối với nhau trong giai tầng của 
họ. Nó được biểu hiện ra là những 
chuẩn mực hành vi, ứng xử của các cá 
nhân trong cộng đồng hoặc giai cấp mà 
họ là thành viên và kèm theo đó là sự 
trừng phạt khi cá nhân vi phạm những 
chuẩn mực. Coleman đã phân biệt vốn 
xã hội trong cộng đồng và trong gia 
đình. Theo ông, vốn xã hội trong gia 
đình được biểu hiện dưới hình thức của 
sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau của các 
thành viên trong gia đình; tương tự như 
vậy, vốn xã hội trong cộng đồng là mối 
liên hệ quan tâm, tin cậy, chia sẻ giữa 
những nhóm xã hội và các thiết chế xã 
(2) Bourdieu, Pierre (1986), “The Forms of 
Capital”, In Hand book of Theory and Research 
for the Sociology of Education (John Richardson, 
Edited), New York: Greenwood Press. 
(3) Coleman, James (1988), “Social capital in the 
Creation of human capital”, American Journal 
of Sociology 44. 
Vốn xã hội cho sự phát triển ở Việt Nam hiện nay 
 45 
hội. Trên thực tế, vốn xã hội trong gia 
đình và xã hội được đặt trên nền tảng cụ 
thể của sự tin cậy của con người trong 
xã hội. Như vậy, vốn xã hội trong gia 
đình chỉ có thể có được và được tích luỹ 
khi các thành viên trong gia đình thực 
sự chia sẻ và quan tâm đến nhau. Theo 
đó, có thể có một gia đình rất giàu vốn 
tài chính nhưng lại nghèo vốn xã hội 
nếu không có sự quan tâm, chia sẻ và tin 
cậy lẫn nhau giữa các thành viên trong 
gia đình. Cũng với quan điểm tương tự, 
việc các thành viên trong nhóm xã hội 
với nhau có sự tin tưởng và chia sẻ, vốn 
xã hội của cộng đồng mới có thể phong 
phú lên. Coleman cũng có quan điểm 
giống như Bourdieu khi coi vốn xã hội 
có thể là cụ thể hoặc tiềm ẩn, có thể 
chuyển hoá sang vốn kinh tế (có tính 
chất hàng hoá công) và có thể được tăng 
thêm do sự nỗ lực của cá nhân. 
Qua tìm hiểu quan niệm của hai nhà 
xã hội học tiêu biểu phương Tây về khái 
niệm vốn xã hội chúng ta thấy rằng, cả 
Bourdieu và Coleman đều nhìn vốn xã 
hội như mạng lưới xã hội và ở đó đề cao 
sự tin cậy, chia sẻ giữa các cá nhân 
trong các nhóm như gia đình, cộng 
đồng. Nguồn vốn xã hội bao hàm trong 
nó cả những mặt tốt và những mặt xấu. 
Do đó, nó cũng có thể thúc đẩy tốt hoặc 
có những kìm hãm nhất định đối với sự 
phát triển. Các nhà xã hội học cũng cho 
rằng, thực tế có các cách định nghĩa 
khác nhau về vốn xã hội. Nhưng tựu 
trung, vốn xã hội thường được định 
nghĩa xoay quanh ba yếu tố có liên hệ 
mật thiết với nhau: khả năng làm việc 
chung với nhau; sự tin cậy giữa con 
người với nhau; các mạng lưới xã hội(4). 
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt giữa 
hai quan điểm vừa nêu là: trong khi 
Bourdieu nhấn mạnh tới vốn xã hội với 
tư cách là một thứ tài sản mà mỗi cá 
nhân có thể có được, thì Coleman lại 
nhìn vốn xã hội như là một thứ tài sản 
chung của một cộng đồng hay một xã 
hội nào đó. 
Trong hai quan niệm về vốn xã hội 
vừa nêu, chúng tôi thấy cách nhìn của 
Coleman dễ hiểu hơn vì cách tiếp cận 
này nhấn mạnh yếu tố chuẩn mực/khuôn 
mẫu của vốn xã hội. Điều quan trọng ở 
chỗ, những chỉ số và yếu tố xã hội này 
sẽ giúp chúng ta dễ dàng định lượng, 
kiểm định các loại hình vốn xã hội tồn 
tại trong các xã hội. Coleman có xu 
hướng thiên về cách định nghĩa vốn xã 
hội theo hướng tích cực và chú ý tới tính 
hiệu quả của nó trong việc thúc đẩy khả 
năng hợp tác và tham gia vào các hoạt 
động xã hội, cũng như trong quá trình 
phát triển kinh tế. Chính vì thế mà nhiều 
công trình điều tra về vốn xã hội dựa 
trên định nghĩa này đã đi đến những 
nhận định theo khuynh hướng định 
lượng hóa (chẳng hạn nhiều hay ít, 
mạnh hay yếu). 
(4) Lene Hjollund, Martin Paldam, Gert Tinggaard 
Svendsen (2001), “Social capital in Russia and 
Denmark: A comparative study” www.gov.si/ 
zmar/conference/2001 /pdf-konf/17-paldam.pdf. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 46 
Để làm rõ đặc trưng nổi bật vốn xã 
hội của Việt Nam, ý nghĩa của nó đối 
với sự phát triển đất nước hiện nay, 
trong phần trình bày dưới đây, chúng tôi 
sẽ tìm hiểu và phân tích các loại hình 
vốn xã hội đang tồn tại trong các nhóm, 
cộng đồng ở nước ta theo quan điểm của 
Coleman. 
1.2. Đặc điểm chung về vốn xã hội 
của Việt Nam 
Nếu căn cứ vào đặc tính chung của 
vốn xã hội và khái niệm vốn xã hội của 
Coleman: chúng ta có thể nhận thấy rõ 
đặc điểm của vốn xã hội Việt Nam hiện 
nay, một nguồn vốn xã hội phong phú 
được tích lũy qua lịch sử nhiều thế hệ 
người Việt. Nguồn vốn xã hội này là các 
mạng lưới xã hội, tồn tại dựa trên khuôn 
mẫu/chuẩn mực và sự tin cậy giữa các 
cá nhân. Thực tế mạng lưới xã hội này 
tồn tại đa dạng trong các quan hệ gia 
đình, cộng đồng và ngoài xã hội với 
nhiều cấp độ, loại hình khác nhau. 
Gia đình 
Mạng lưới quan hệ gia đình được 
xem là một loại hình vốn xã hội cơ bản 
trong xã hội Việt Nam. Từ khi Đổi mới 
đến nay, loại hình vốn xã hội này đang 
được huy động tối đa vào việc phát triển 
sản xuất mở rộng kinh doanh, di cư và 
tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cũng 
như đối phó với những rủi ro trong cuộc 
sống. Điều này đã được nhiều nghiên 
cứu gần đây kiểm chứng. Chẳng hạn, 
nghiên cứu của Appold và các tác giả 
khác (1995) chỉ ra vai trò của gia đình 
trong việc giúp đỡ vốn để khởi nghiệp 
kinh doanh, sản xuất nhỏ ở Hà Nội. Hay 
các nghiên cứu của Đặng Nguyên Anh 
(1997), đã chỉ ra vai trò của các quan hệ 
gia đình và người người thân trong việc 
quyết định di chuyển của những người 
di cư. Lê Bạch Dương và Khuất Thu 
Hồng (2008) trong một nghiên cứu khác 
cũng đề cập đến mạng lưới xã hội trong 
di cư, các tác giả nhấn mạnh mạng lưới 
xã hội cung cấp cơ sở để các hộ gia đình 
thực hiện các chuyến di cư, cung cấp 
“vốn xã hội” không chỉ là tiền, mà còn 
là những hỗ trợ ban đầu, nguồn thông 
tin cũng như những giúp đỡ trực tiếp 
khác như về tinh thần, tình cảm giúp 
người di cư tìm được cơ hội và đối phó 
được nhiều rủi ro, thách thức. 
Dòng họ 
Nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng, 
gia đình Việt Nam nằm trong mạng lưới 
dòng họ và dòng họ là một gia đình mở 
rộng với một mạng lưới gia đình con tập 
hợp trên một địa vực nhất định(5). “Họ 
và làng chồng lên nhau, quan hệ huyết 
thống và quan hệ địa vực chồng lên 
nhau”(6). Các nghiên cứu cũng cho thấy, 
trong lịch sử và hiện nay, mạng lưới 
quan hệ dòng họ có vai trò rất lớn trong 
đời sống kinh tế - xã hội của cá nhân, 
gia đình và cộng đồng. Sự liên kết, 
(5) Mai Văn Hai (2000), Quan hệ Dòng họ ở 
châu thổ sông Hồng, Nxb Khoa học xã hội, Hà 
Nội, tr. 24. 
(6) Bùi Quang Dũng (2007), Xã hội học nông 
thôn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 152. 
Vốn xã hội cho sự phát triển ở Việt Nam hiện nay 
 47 
tương trợ lẫn nhau trong các hoạt động 
sản xuất, kinh doanh, tự quản cộng đồng 
và các công việc quan trọng khác của 
mỗi cá nhân và gia đình như xây dựng 
nhà cửa, hiếu hỷ, v.v.. Có thể thấy, các 
nghiên cứu đó đã chỉ rõ vốn xã hội trong 
nhóm gia đình, dòng họ, cụ thể là mạng 
lưới xã hội trong quan hệ gia đình và 
dòng họ. 
Mạng lưới xã hội gồm các nhóm, hội, 
đoàn trong cộng đồng – làng xã 
Nhiều học giả khẳng định rằng, cộng 
đồng làng xã Việt Nam, nhất là ở đồng 
bằng Bắc Bộ là một phức hợp các quan 
hệ kinh tế, xã hội vào loại phức tạp nhất 
thế giới(7). Mạng lưới quan hệ xã hội này 
kết hợp với nhau trong một chỉnh thể đa 
dạng. Nó được các nhà nghiên cứu gọi 
là mạng lưới xã hội phi chính thức/ 
không chính thức trong các cộng đồng 
làng xã Việt Nam. Mạng lưới xã hội này 
chứa đựng trong nó các loại quan hệ: 
quan hệ theo địa vực như xóm, ngõ, tổ 
liên gia; quan hệ nghề nghiệp như 
phường nghề, hội nghề; quan hệ tín 
ngưỡng như hội chùa, hội đền; quan hệ 
theo lớp tuổi như giáp, hội đồng niên, 
v.v..(8) Quan hệ giáo dục có hội đồng 
môn, đồng học; quan hệ quân đội có hội 
đồng ngũ; quan hệ theo sở thích như hội 
bóng chuyền, cầu lông, bóng bàn, sinh 
vật cảnh,... Mạng lưới xã hội phi chính 
thức này tồn tại và hoạt động dựa trên 
một khuôn mẫu/chuẩn mực/giá trị mong 
đợi của nhóm. Khuôn mẫu/chuẩn mực/ 
giá trị xã hội này có thể là thành văn 
hoặc bất thành văn được các cá nhân, 
nhóm và cộng đồng xã hội cùng chia sẻ, 
chấp nhận. Thực tế cho thấy, những 
chuẩn mực/giá trị xã hội này là chất keo 
dính tạo nên sự liên kết, gắn bó chặt chẽ 
giữa các cá nhân trong đời sống xã hội. 
Các hội, đoàn và các câu lạc bộ này 
được xây dựng và thành lập mang tính 
tự nguyện liên kết giữa các thành viên 
trong cộng đồng nhằm hỗ trợ, chia sẻ 
lẫn nhau giữa các thành viên(9). Mặc dù 
được xem là mạng lưới quan hệ xã hội 
không chính thức, nhưng thực tế, hệ 
thống mạng lưới xã hội này đang thu hút 
sự tham gia tích cực của các cá nhân và 
hoạt động của nó tạo sự chia sẻ, liên kết 
chặt chẽ giữa các thành viên và trở 
thành mối quan hệ xã hội không thể 
thiếu đối với cá nhân trong cộng đồng. 
Sự nảy sinh và tồn tại mạng lưới quan 
hệ xã hội này là yêu cầu thực tế của sự 
phát triển kinh tế, xã hội. Hơn nữa, 
mạng lưới xã hội này là công cụ hữu 
(7) Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn 
hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 74. 
(8) Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên 
cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa Dân 
tộc, Hà Nội, tr. 224-257. 
(9) Bế Quỳnh Nga và cộng sự (2008), Vai trò 
của các mạng lưới xã hội trong việc tiếp cận 
các dịch vụ tài chính và đối phó với các rủi ro 
cho các hộ nông dân (Khảo sát tại xã Yên 
Thường, Gia Lâm, Hà Nội), Đề tài cấp Viện Xã 
hội học, Hà Nội, tr. 17. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 48 
hiệu để duy trì tính gắn bó, đoàn kết 
giữa các cá nhân, nhóm trong các cộng 
đồng - làng xã hiện nay. 
Trong nghiên cứu của Bế Quỳnh Nga 
và cộng sự (2007, 2008) tại một số xã ở 
đồng bằng sông Hồng đã cho thấy vai 
trò của các mạng lưới xã hội ở nông 
thôn trong việc cung cấp các dịch vụ tài 
chính nhằm giảm thiểu rủi ro và cải 
thiện sinh kế cho các nhóm hộ gia đình. 
Nghiên cứu của Bùi Quang Dũng và 
Đặng Thị Việt Phương (2008) cũng trả 
lời câu hỏi tại sao người dân nông thôn 
tham gia vào các tổ chức tự nguyện gồm 
các hội nghề nghiệp, hội theo sở thích, 
hội theo nhóm tuổi, v.v.. Nghiên cứu 
này cũng chỉ ra các hội này được xây 
dựng và thành lập mang tính tự nguyện, 
liên kết giữa các thành viên trong cộng 
đồng nhằm hỗ trợ, chia sẻ lẫn nhau. 
 Mạng lưới xã hội chính thức 
Đây là mạng lưới quan hệ xã hội theo 
hệ thống Đảng, Nhà nước, các đoàn thể 
từ trên xuống dưới (Trung ương, 
tỉnh/thành phố, quận/huyện, phường/xã, 
thôn/xóm). Các mạng lưới xã hội chính 
thức hoạt động đều dựa trên một nguyên 
tắc chung của xã hội. Những nguyên tắc 
này được cụ thể hóa trong các văn bản 
pháp luật của Nhà nước. Thực tế cho 
thấy, sự gắn bó chặt chẽ giữa các cá 
nhân, thành phần trong các mạng lưới xã 
hội chính thức tạo nên sự đồng thuận 
của toàn xã hội. Từ đó tạo sức mạnh của 
toàn xã hội trong các hoạt động phát 
triển văn hóa, kinh tế, xã hội ở các cộng 
đồng hiện nay. 
Mạng lưới tổ chức xã hội khác 
Mạng lưới tổ chức xã hội khác là các 
loại hình doanh nghiệp; các tổ chức tôn 
giáo,... Các tổ chức xã hội này hoạt động 
dựa trên hệ thống pháp luật và chuẩn 
mực/giá trị của nhóm xã hội. Đó cũng là 
chất keo dính tạo lên sự gắn bó chặt chẽ 
giữa các cá nhân trong đời sống xã hội. 
Việc nhận diện mạng lưới xã hội 
chính thức và phi chính thức cho thấy, 
nguồn vốn xã hội trong đất nước Việt 
Nam đa dạng và phong phú. Nếu dân 
tộc ta không có nguồn vốn xã hội giàu 
có, thì đất nước và con người Việt Nam 
có lẽ đã bị đồng hóa hay biến mất giữa 
những thế lực xâm lăng cường bạo đến 
từ mọi phía trong hàng nghìn năm qua 
và Việt Nam cũng không thể vững vàng 
hội nhập sâu rộng với thế giới như ngày 
nay. Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực tiễn 
đất nước hiện nay so với thế giới, đặc 
biệt là so sánh với các nước láng giềng 
trong khu vực, chúng ta thấy nhiều vấn 
đề liên quan đến vốn xã hội chưa được 
phát huy hết hoặc có những nguồn vốn 
có nguy cơ mai một trong bối cảnh toàn 
cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng 
sâu rộng. 
2. Một số nhận xét về nguồn vốn xã 
hội cho sự phát triển của Việt Nam 
Qua việc tìm hiểu đặc điểm nguồn 
vốn xã hội, chúng tôi cho rằng, nguồn 
vốn xã hội được xem như là sức mạnh 
Vốn xã hội cho sự phát triển ở Việt Nam hiện nay 
 49 
tinh thần của xã hội. Đây là thành tố cơ 
bản có ý nghĩa quan trọng đối với sự 
phát triển của một xã hội. Nguồn vốn xã 
hội không được phát huy sẽ dẫn đến sự 
kết dính xã hội yếu và trì trệ, xã hội 
không phát triển. Sự phát triển kinh tế 
của một vùng nào đó thường đi song 
song với sự cải thiện đời sống vật chất 
và tinh thần. Nhưng vùng đất giàu có về 
vật chất thuần túy mà thiếu vắng tinh 
thần/vốn xã hội thì sự phồn thịnh trở nên 
mong manh. Giới khoa học cảnh báo 
rằng, hiện tượng này đang xuất hiện và 
tồn tại ở các nền kinh tế đang nổi, các 
quốc gia đang phát triển. Để khai thác 
và phát huy nguồn vốn cho sự phát triển 
của Việt Nam hiện nay và trong tương 
lai, chúng ta cần quan tâm thực hiện 
những việc sau đây: 
Thứ nhất, cần có sự đồng thuận về 
khái niệm vốn xã hội thống nhất, phù 
hợp với đặc trưng dân tộc, đất nước. 
Phải tìm hiểu và nhận diện về một 
nguồn vốn xã hội chung nhất cho đất 
nước, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh 
Việt Nam; đó là tình đoàn kết dân tộc, 
tình yêu quê hương, đất nước, v.v.. Bên 
cạnh đó, nguồn vốn xã hội Việt Nam 
phải đảm bảo tính tương thích với thế 
giới, để hội nhập và huy động được các 
nguồn vốn xã hội và các loại hình vốn 
khác của thế giới phục vụ cho sự phát 
triển của Việt Nam. 
Thứ hai, cần nhận thức rõ rằng, điểm 
mạnh của nguồn vốn xã hội Việt Nam là 
có một hệ thống các giá trị tạo nên sự 
gắn bó liên kết và sức mạnh mang tính 
cộng đồng (đó là các giá trị nhân văn 
của “tình làng, nghĩa xóm”; đại đoàn kết 
toàn dân; các quan hệ phường, hội,...); 
nhưng nguồn vốn xã hội này cũng có 
tính hai mặt (có thể hướng đến sự phát 
triển hoặc thiên về tính bảo tồn, kìm 
hãm phát triển; có thể làm hài hoà lợi 
ích của mọi thành viên trong cộng đồng, 
cũng có thể tạo nên xung đột giữa các 
cộng đồng, giữa cộng đồng lớn với cộng 
đồng nhỏ; tính ích kỷ cá nhân tăng lên). 
Trên thực tế thời gian qua có nhiều yếu 
tố ảnh hưởng đến nguồn vốn xã hội của 
Việt Nam. Đó là: sự xuống cấp của đạo 
đức xã hội, thượng tôn các giá trị vật 
chất, sự giảm lòng tin của nhân dân, nạn 
tham nhũng, lãng phí, bè phái, sự xuống 
cấp nghiêm trọng của nền giáo dục... 
Thứ ba, cần chống lại sự vi phạm, 
làm tổn hại nguồn vốn xã hội trong cộng 
đồng; cần không ngừng phát huy, phát 
triển nguồn vốn xã hội này phù hợp với 
nguồn vốn xã hội bên ngoài; quan tâm 
và phát triển giáo dục nhân cách con 
người, coi đó là biện pháp căn bản nhất 
để giải quyết những tồn tại nêu trên; từ 
đó xây dựng và huy động sức mạnh của 
toàn dân. Quan tâm, nuôi dưỡng và phát 
huy những nguồn vốn xã hội trong 
những cộng đồng có vai trò quan trọng 
trong việc xây dựng và phát triển đất 
nước, tạo nền tảng và những đột phá để 
phát triển vốn xã hội Việt Nam. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 50 

File đính kèm:

  • pdfvon_xa_hoi_cho_su_phat_trien_o_viet_nam_hien_nay.pdf