Di dân nông thôn và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn

Di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với lịch sử phát triển của

xã hội loài người cùng với những thay đổi của tự nhiên, xã hội và sự phát triển

không đồng đều về kinh tế - xã hội giữa các vùng, các quốc gia trên thế giới.

Do vậy, khi nghiên cứu về di dân cần phải dựa trên những cơ sở lý thuyết khoa

học, đúng đắn thì mới có thể thấy được những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực

của quá trình này.

pdf 10 trang yennguyen 880
Bạn đang xem tài liệu "Di dân nông thôn và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Di dân nông thôn và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn

Di dân nông thôn và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn
DI DÂN NÔNG THÔN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ 
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 
HỘ GIA ĐÌNH Ở NÔNG THÔN 
 §INH QUANG Hµ* 
1. Tiếp cận nghiên cứu từ góc độ lý thuyết 
Di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với lịch sử phát triển của 
xã hội loài người cùng với những thay đổi của tự nhiên, xã hội và sự phát triển 
không đồng đều về kinh tế - xã hội giữa các vùng, các quốc gia trên thế giới. 
Do vậy, khi nghiên cứu về di dân cần phải dựa trên những cơ sở lý thuyết khoa 
học, đúng đắn thì mới có thể thấy được những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực 
của quá trình này. 
 Lý thuyết lực hút - lực đẩy 
 Tiêu biểu cho lý thuyết lực hút và lực đẩy là: Pipton (1976). Khi nghiên cứu 
những người di dân từ nông thôn ra đô thị đã chia họ ra làm hai nhóm chính. 
Nhóm thứ nhất là, những người nghèo khổ thiếu ruộng đất, ít học hành bị tác 
động của “lực đẩy” ra khỏi vùng, đến các đô thị hoặc đến các vùng khác kiếm 
kế sinh nhai. Nhóm thứ hai là, những người tương đối khá giả có học vấn 
thường bị tác động của “lực hút” từ các vùng đô thị hoặc các vùng có điều kiện 
phát triển kinh tế lôi cuốn1. 
Lực đẩy, là những yếu tố, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính trị, văn 
hóaở vùng xuất phát (vùng xuất cư) đang gây ra nhiều khó khăn cho người 
dân ở đây. Đó là sự không đáp ứng được các nhu cầu sinh sống về vật chất, 
* ThS. Học viện Cảnh sát nhân dân 
1 Hoàng Văn Chức (2004): Di dân tự do đến Hà Nội - thực trạng và giải pháp quản lý, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.12 - 13. 
Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam – 2/2010 
74
tinh thần, về việc làm, sự khan hiếm về đất canh tác, tiền công ít khiến họ 
phải ra đi tìm kiếm một vùng đất mới đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của họ. 
Lực hút, là những điều kiện, yếu tố thuận lợi về tự nhiên, kinh tế - xã hội, 
chính trị, văn hoá ở nơi đến (vùng nhập cư) đã cuốn hút người di dân ở nơi 
khác di chuyển đến làm ăn sinh sống. Lực hút thường là khả năng có được việc 
làm, thu nhập cao, thuận tiện trong sản xuất kinh doanhvà các điều kiện về 
giáo dục đào tạo, y tế, hệ thống dịch vụ xã hội tốt hơn. 
Như vậy, lý thuyết lực hút - lực đẩy chỉ có ý nghĩa liệt kê các nhân tố tác 
động đến quá trình di dân, không giải thích được tại sao trong cùng một hoàn 
cảnh lại có một số người di chuyển, một số người khác lại không di chuyển và 
các yếu tố nào quyết định sự di dân. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng, thực 
chất di dân là một vấn đề xã hội phức tạp, đối tượng tham gia di dân rất đa 
dạng. Việc di chuyển ngoài các động cơ cá nhân còn liên quan đến rất nhiều 
các yếu tố khác như: tình trạng hôn nhân, thay đổi nghề nghiệp, việc làm, lứa 
tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tôn giáo và các mối quan hệ trong gia đình 
cũng như các mối quan hệ cá nhân với cộng đồng dân cư mà họ sẽ chuyển đến. 
 Lý thuyết mạng lưới xã hội 
Những nghiên cứu về di cư trên thế giới gần đây ngày càng quan tâm đến 
ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá - xã hội đối với di cư. Trong các yếu tố đó, 
mạng lưới xã hội đã được xem như một nhân tố quan trọng quyết định toàn bộ 
quá trình chuyển cư. Khái niệm mạng lưới xã hội trên thực tế được ứng dụng 
rộng rãi trong nhiều nghiên cứu và trở thành một khái niệm cơ bản trong các lý 
thuyết đương đại về di cư, kể cả di cư trong nước lẫn di cư quốc tế2. 
Trên bình diện xã hội học, khái niệm mạng lưới xã hội dựa trên cơ sở lý 
thuyết hệ thống và tương tác xã hội. Mạng lưới xã hội là một tập hợp liên kết 
giữa các cá nhân hay các nhóm dân cư nhất định3. Đặc trưng rõ nét nhất của 
mạng lưới xã hội phục vụ cho mục đích di dân là sự liên kết xã hội giữa những 
người di chuyển. Thông qua quan hệ họ hàng, bạn bè, người thân, những người 
di chuyển có thể tiếp nhận các thông tin và sự trợ giúp cần thiết tại nơi mà họ 
sẽ chuyển đến. Chính ở đây các quan hệ lâu bền dựa trên nền tảng gia đình trở 
nên hết sức quan trọng, sự gắn kết chặt chẽ với nhau giữa người di chuyển với 
người ở nơi đến, tạo nên những liên kết thông qua gia đình, thân tộc tin cậy 
hơn nhiều so với những quan hệ với người ngoài. 
Mạng lưới xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc giải thích các loại hình di 
dân, quá trình định cư và thích ứng của người di chuyển cũng như ý định 
chuyển cư trong tương lai. Bởi di dân vốn là một quá trình có nhiều yếu tố bất 
2 Massey, D. J. Arango, G. Hugo, ali kouaouci, A. Pellegrino, J. E. Taylor (1993): Theories of international 
migration: A review and appraisal population and development review 19(3), tr. 431 - 464. 
3 Đặng Nguyên Anh (1998): Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư, Tạp chí Xã hội học, tr. 16. 
Di dân nông thôn  
75
trắc, một mạng lưới xã hội tin cậy sẽ góp phần làm giảm thấp những rủi ro do 
thiếu thông tin. Các liên kết xã hội giữa nơi xuất cư và nơi nhập cư, sẽ làm 
giảm cái giá phải trả cho quá trình di dân, đồng thời làm tăng cơ hội thành công 
của đối tượng di chuyển tại nơi chuyển đến. Gia đình, bạn bè, người thân tại 
nơi chuyển đến thường giữ vai trò cưu mang, tư vấn, cung cấp thông tin, giúp 
liên hệ việc làm cũng như vượt qua khó khăn ban đầu. 
2. Vai trò của di dân đối với sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn 
Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế cùng với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại 
hoá cũng như sức ép về dân số, việc làm, đất đai, nghề nghiệp... nhất là ở các 
vùng nông thôn Đồng bằng sông Hồng “đất chật, người đông”, tính bình quân 
đầu người chỉ có 600 m2 đất canh tác, nên hàng năm quỹ thời gian lao động 
còn dư thừa tới 30 - 40%, nhiều địa phương tỷ lệ này lên tới hơn 50%4. Dân số 
ngày càng tăng, trong khi đất canh tác có hạn, nền kinh tế hàng hoá chưa phát 
triển, tất yếu dẫn đến hiện tượng, một bộ phận dân cư có sức khoẻ tìm kiếm 
việc làm, tăng thu nhập ở nơi khác bằng cách di cư vào các đô thị lớn như: Hà 
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vũng Tàu Ở Hà Nội những năm 
gần đây, mỗi năm có trên 3 vạn người lao động từ nông thôn đổ vào, còn ở 
thành phố Hồ Chí Minh con số đó gấp đôi. 
Theo thống kê của các nhà kinh tế, nước ta hiện nay chỉ có 7 triệu ha diện 
tích đất canh tác, tương đương nhu cầu tối đa cần có 19 triệu lao động. So với 
thực tế 25,6 triệu lao động đang sống trong khu vực nông nghiệp, còn dư 6,6 
triệu. Trong khi mỗi năm chúng ta chỉ có thể tạo ra việc làm cho khoảng 800 
nghìn lao động, thì mỗi năm lực lượng lao động trẻ bước vào độ tuổi lao động 
là 1 triệu. Mặt khác, sự khác biệt về thu nhập giữa các vùng, đặc biệt là giữa 
thành thị và nông thôn, cũng là một yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình di 
dân. Trong khi đó, các đô thị lớn như Hà Nội luôn có mức thu nhập cao hơn so 
với các tỉnh thành phố khác trong cả nước. Năm 2000, GDP bình quân đầu 
người của Hà Nội đạt 990 USD và mức phấn đấu năm 2010 là 2300 USD5. 
Làm giàu từ nông nghiệp, đi lên từ ruộng vườn, từ lâu đã là một bài toán 
khó cho người nông dân. Quá khó đến gần như nan giải! Thoát ly khỏi ruộng 
đồng, đi tìm kế sinh nhai không phải là hiện tượng mới đối với nông thôn Việt 
Nam. Song trong 5 - 10 năm trở lại đây, cơ chế thị trường, di cư đã diễn ra với quy 
mô rộng lớn, với điều kiện và bản chất khác trước, trở thành một yếu tố không thể 
không xem xét trong việc tìm kiếm lời giải đối với sự nghiệp phát triển nông thôn 
4 Nghiêm Xuân Đạt, Vũ Trọng Lâm, Nguyễn Quý Nghị (2001), Di dân tự phát vào Hà Nội - thực 
trạng và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, tr. 44. 
5 Nghiêm Xuân Đạt, Vũ Trọng Lâm, Nguyễn Quý Nghị (2001): Di dân tự phát vào Hà Nội - thực 
trạng và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, tr. 44. 
Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam – 2/2010 
76
từ truyền thống lên hiện đại6. Những gia đình có người đi ra các thành phố, đô thị 
làm việc không phải là hộ có mức sống thấp. Không ít gia đình có điều kiện kinh 
tế khá, nhưng họ lại mong muốn có cuộc sống khá hơn và chính những người này 
thường là những ứng cử viên đầu tiên ra thành phố làm việc. Trong thực tế, những 
người di dân từ nông thôn ra đô thị ít rơi vào những nhóm đối tượng mù chữ, thất 
học ở nông thôn. Người di dân từ nông thôn ra đô thị, đều có trình độ học vấn 
tương đối cao hơn so với người ở lại. 
Mạng lưới xã hội phục vụ cho mục đích di dân, gọi là mạng lưới di dân có 
vai trò quan trọng trong quá trình di dân như: cung cấp những thông tin về cơ 
hội việc làm, nơi ở trọ, điều kiện sinh hoạt, các dịch vụ xã hội khác Hơn nữa, 
sự có mặt của anh chị em họ hàng, bạn bè, người thân tại nơi đến còn làm tăng 
khả năng hoà nhập, thích ứng của người di dân và thông qua mạng lưới quan 
hệ xã hội này người di dân nhận được nhiều sự giúp đỡ từ phía họ. Như vậy, 
vai trò tích cực của mạng lưới xã hội là động lực thúc đẩy dòng di dân. Nếu 
như yếu tố kinh tế là động lực chủ yếu thúc đẩy di dân thì mạng lưới xã hội là 
yếu tố quyết định nơi chuyển đến, góp phần thúc đẩy sự hội nhập của người di 
dân trên địa bàn nhập cư. Sự có mặt của anh chị em họ hàng, bạn bè tại nơi 
đến, đã giúp người di dân có khả năng thích ứng và hoà nhập với môi trường 
làm việc mới. Trong các thông tin mà người di dân mong đợi ở người thân giúp 
đỡ họ, thì những cơ hội có được việc làm ở đô thị đáng được quan tâm nhất 
chiếm tới 50%, giúp đỡ để có chỗ ăn ở 33%, giúp đỡ về kinh tế trong thời gian 
đầu ra đô thị làm việc chiếm 38,4% và cung cấp thông tin 47,6%7. Điều đó cho 
thấy không thể phủ nhận vai trò quan trọng của mạng lưới xã hội trong quá 
trình di dân. Những nghiên cứu gần đây cho thấy người di dân từ nông thôn ra 
đô thị nắm bắt trước được những thông tin cần thiết ngoài đô thị dựa vào mạng 
lưới xã hội. Có 59,4% người di dân biết trước về công việc làm ngoài đô thị, 
điều này thể hiện sự tích cực của người di dân trong việc tìm kiếm các nguồn 
thông tin phục vụ cho mục đích di chuyển; 51,6% biết được những thông tin về 
giá cả sinh hoạt tại nơi đến; 35% người di dân quan tâm và biết thông tin về giá 
cả sinh hoạt ở đô thị, những thông tin về thị trường giá cả này có ý nghĩa quan 
trọng trong việc buôn bán, kinh doanh nhỏ của người di dân; 29,5% người di 
dân biết trước về nơi ăn chốn ở khi làm việc ở đô thị, 10,2% biết trước về dịch 
vụ y tế8. 
Mối liên hệ giữa người di dân với gia đình họ ở quê hương rất chặt chẽ và 
nó phủ nhận luận điểm "di dân là sự thoát ly khỏi gia đình, khỏi địa phương". 
6 Đặng Nguyên Anh (2003): Di dân ở Việt Nam: kiếm tìm lời giải cho phát triển nông thôn, 
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, tr. 63. 
7 Lê Văn Toàn (2001): Di dân tạm thời nông thôn – đô thị và vai trò của nó đối với sự phát 
triển kinh tế hộ gia đình người di dân, Đề tài cấp bộ, mã số XH2B -26, Hà Nội. 
8 Lê Văn Toàn (2001); Di dân tạm thời nông thôn – đô thị và vai trò của nó đối với sự phát 
triển kinh tế hộ gia đình người di dân, Đề tài cấp bộ, mã số XH2B -26, Hà Nội, tr.35 
Di dân nông thôn  
77
Ngược lại, di dân vừa là phương thức để người di dân tạo nguồn thu nhập cho 
gia đình vừa là bài toán để giải quyết lực lượng lao động thiếu việc làm của các 
hộ gia đình ở nông thôn. Bên cạnh lợi ích kinh tế, quá trình di dân từ nông thôn 
ra đô thị giúp cho người di dân có sự chuyển biến nhanh trong nhận thức và 
hành động, họ tiếp thu được những tri thức mới, gắn liền với cuộc sống văn 
minh của thành phố về với nông thôn. Điều có ý nghĩa hơn là, trong quá trình 
làm việc ở đô thị, họ còn tích luỹ được ý thức làm giàu cùng với các thang giá 
trị mới của lối sống, sinh hoạt mà có thể trước đó chưa từng tồn tại ở làng quê. 
Tất cả đã tạo nên một khởi sắc mới trong cuộc sống, ở những làng quê có nhiều 
người di dân ra thành phố. 
Di dân nói chung và di dân từ nông thôn ra đô thị nói riêng là một quá trình 
chọn lọc tự nhiên. Đa số người di dân tìm đến các đô thị, thành phố lớn đều 
thuộc nhóm dưới 40 tuổi. Không ít người di dân đang ở vào độ tuổi lao động 
sung sức nhất từ 25 - 40 tuổi (chiếm 60,8%). Sự hấp dẫn của công việc, cuộc 
sống thành thị và tâm lý muốn thoát khỏi nghề nông chân lấm, tay bùn; thu 
nhập thấp đã làm cho hầu hết người trong độ tuổi lao động tìm ra đô thị làm 
việc. Như vậy, phải chăng di dân từ nông thôn ra đô thị sẽ làm cạn kiệt lực 
lượng lao động trẻ khoẻ, tương đối có trình độ ở nông thôn hiện nay? Nếu vậy 
thì hiện tượng rời bỏ làng quê ồ ạt kéo nhau ra thành phố tìm kiếm việc làm 
hiện nay phải chăng sẽ góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo đói, 
kém phát triển ở nông thôn?. Trên thực tế thì hoàn toàn ngược lại, di dân từ 
nông thôn ra đô thị đã tạo ra động lực giúp các hộ gia đình ở nông thôn phát 
triển kinh tế. 
Di dân là một chiến lược sinh kế cho đa số hộ gia đình nông thôn. Việc tìm 
hiểu chiến lược sống của nông hộ và nắm bắt cơ hội làm ăn trong bối cảnh kinh 
tế thị trường và quy định chính sách của Chính phủ là rất quan trọng. Những 
quyết định di chuyển không đơn giản chỉ xuất phát từ mục đích và nhu cầu của 
cá nhân người di cư mà còn là quyết định của cả gia đình nhằm có được nguồn 
thu nhập ổn định và giảm thiểu nhiều nhất các rủi ro cho gia đình. Các hộ gia 
đình ở nông thôn, thường phân công lao động trên nhiều địa bàn khác nhau 
nhằm giảm thiểu rủi ro. Nguồn sinh kế là nhiều chiều và đa dạng, thông qua di 
dân, các thành viên trong hộ cùng nhau đóng góp và chia sẻ thu nhập chung. 
Theo phương thức đó, tiền do các thành viên đi làm ăn xa gửi về không phải là 
một kết quả ngẫu nhiên do mỗi thành viên thực hiện mà là một bộ phận hợp 
thành trong chiến lược sống của các nông hộ nghèo9. 
Mục đích cơ bản nhất của người di dân khi ra đô thị làm việc là để nâng cao 
thu nhập cho gia đình chiếm 85,8%; để học nghề chiếm 5,9%; để nuôi sống 
9 Đặng Nguyên Anh (2005), Di dân trong nước: vận hội và thách thức đối với công cuộc đổi 
mới và phát triển ở Việt Nam, Hà Nội, tr. 18 - 19. 
Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam – 2/2010 
78
bản thân 35%; và để trả học phí cho con chiếm 5,9%10. Như vậy, việc hình 
thành quyết định di chuyển có sự tác động của nhiều động cơ khác nhau. 
Nhưng những khó khăn về kinh tế là động lực chính buộc phần lớn người dân 
ở nông thôn tìm ra đô thị làm việc. Điều đó cho thấy, việc ra đô thị làm việc vì 
hoàn cảnh gia đình, vì sự sống của gia đình nhiều hơn là vì bản thân họ. 
Trong quá trình ra đô thị làm việc, người di dân có thể di chuyển với nhiều 
hình thức khác nhau. Họ có thể đi một mình hoặc có thể đi cùng bạn bè, họ 
hàng, người thân trong gia đình. Có 23,2% người di dân ra đô thị làm việc cùng 
người nhà; 13,8% cùng những người thân trong dòng họ và có tới 40,2% 
người di dân đi cùng những người bạn bè cùng làng, xã11. Điều này phản ánh 
tính cấu kết cộng đồng cao của những người di dân. Hình thức di chuyển theo 
nhóm là cơ sở tạo cho người di dân có được tâm lý an toàn khi di chuyển. 
Người di dân ra đô thị làm việc chủ yếu ở các ngành nghề phi nông nghiệp 
như: buôn bán, kinh doanh nhỏ chiếm 48,9%; làm các dịch vụ tại đô thị chiếm 
45,3%. Nam giới thường tham gia vào các việc đòi hỏi sức khoẻ nhiều hơn: thợ 
xây dựng (17,3%); công nhân làm việc tại các nhà máy điện nước hay các công 
ty (8,35%) và một số nghề như lái xe ôm, cửu vạn còn nữ giới làm các công 
việc nhẹ nhàng hơn: bán rượu, xôi, bánh (20,1%), buôn bán gia cầm, hoa quả, 
làm thợ may, thợ gội đầu, trang điểm12 Như vậy, nghề nghiệp của người di 
dân ở đô thị đa dạng, phong phú về chủng loại. Khi so sánh điều kiện làm việc 
của người di dân ở đô thị so với ở quê, đã có tới 68% người di dân cho rằng 
điều kiện làm việc ở đô thị tốt hơn ở quê13, điều này đã chứng tỏ sự hấp dẫn và 
sức hút lớn từ đô thị đối với người di dân. Chính điều đó đã tạo điều kiện cho 
dòng di dân từ các vùng nông thôn ra đô thị tìm kiếm việc làm có xu hướng 
ngày càng tăng. 
Người di dân tham gia làm việc trong nhiều ngành nghề khác nhau ở đô thị 
“công việc tuy nặng nhọc cực khổ nhưng kiếm được tiền”, đó là nhận đinh và 
tâm lý chung của người di dân. Đúng vậy, so với thu nhập từ nông nghiệp thì 
khoản tiền người di dân dành dụm được hàng tháng quả là không nhỏ. Tính 
bình quân mỗi người di dân thu nhập 697.874đ/tháng14. Nó lớn hơn rất nhiều 
so với số liệu dự án VIE/93/P02 do Viện Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh khảo 
10 Lê Văn Toàn (2001): Di dân tạm thời nông thôn – đô thị và vai trò của nó đối với sự phát 
triển kinh tế hộ gia đình người di dân, Đề tài cấp bộ, mã số XH2B -26, Hà Nội, tr.35 
11 Lê Văn Toàn (2001): Di dân tạm thời nông thôn – đô thị và vai trò của nó đối với sự phát 
triển kinh tế hộ gia đình người di dân, Đề tài cấp bộ, mã số XH2B -26, Hà Nội, tr.46 
12 Lê Văn Toàn (2001): Di dân tạm thời nông thôn – đô thị và vai trò của nó đối với sự phát 
triển kinh tế hộ gia đình người di dân, Đề tài cấp bộ, mã số XH2B -26, Hà Nội, tr.50 
13 Lê Văn Toàn (2001): Di dân tạm thời nông thôn – đô thị và vai trò của nó đối với sự phát 
triển kinh tế hộ gia đình người di dân, Đề tài cấp bộ, mã số XH2B -26, Hà Nội, tr.51 
14 Lê Văn Toàn (2001): Di dân tạm thời nông thôn – đô thị và vai trò của nó đối với sự phát 
triển kinh tế hộ gia đình người di dân, Đề tài cấp bộ, mã số XH2B -26, Hà Nội, tr.53 
Di dân nông thôn  
79
sát năm 1994 về lao động ngoại tỉnh cho thấy số tiền trung bình của người di 
dân gửi về cho gia đình là 77.600đ/tháng. Kết quả khảo sát của dự án “di dân 
và sức khoẻ”, do Viện Xã hội học triển khai ở 6 tỉnh - thành, thì trung bình số 
tiền gửi về cho gia đình của một người di dân là 94.000đ/tháng. Kết quả khảo 
sát về lao động thời vụ ở Hà Nội năm 1995, thì mỗi tháng họ gửi về cho gia 
đình ít nhất 200.000đ. Như vậy, rõ ràng khoản tiền đóng góp của người di dân 
là không nhỏ so với mức thu nhập từ đồng ruộng, nó là phần đóng góp quan 
trọng cho ngân sách gia đình. Nó còn hiệu quả hơn đối với các hộ gia đình 
nông thôn khi họ dành số tiền đó đầu tư cho sản xuất. Họ tự tổ chức sản xuất: 
đầu tư cho trồng trọt, chăn nuôi để có thu nhập thêm. Và như thế, di dân trở 
thành phương thức hữu hiệu để tạo lập nguồn vốn nhằm thực hiện một sự đầu 
tư sinh lãi và phát triển ở nông thôn. 
Quá trình di dân từ nông thôn ra đô thị đã tạo điều kiện cho người di dân có 
cơ hội được tiếp xúc thường xuyên với xã hội đô thị và họ dần dần làm quen 
với lối sống của người đô thị, học hỏi được những kiến thức cần thiết phục vụ 
cho bản thân, cũng như sự phát triển của gia đình. Việc áp dụng những kiến 
thức mới, những thành quả tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào phục vụ sản xuất 
không chỉ nâng cao năng suất lao động mà còn nâng cao trình độ, kỹ năng cho 
người nông dân, giúp họ giảm bớt thời gian lao động để có điều kiện nghỉ ngơi 
phục hồi sức khoẻ. Có 48,9% người di dân khẳng định có thêm được nhiều kỹ 
năng nghề nghiệp và trở nên thành thạo, có tay nghề vững vàng ; 20% người di 
dân học được nghề mới; 10% có thêm được kinh nghiệm về thị trường giá cả15. 
Sự nhạy bén trong việc tiếp nhận những thông tin, kỹ năng hay nghề mới giúp 
người di dân năng động, linh hoạt hơn trong tổ chức hoạt động kinh tế cho hộ 
gia đình, cũng như khả năng phát triển, mở mang ngành nghề mới ở nông thôn. 
Như vậy, những tri thức, kinh nghiệm người di dân học hỏi được không chỉ 
làm giầu vốn hiểu biết của bản thân mà còn được truyền tải về cho các thành 
viên khác trong gia đình. Thông qua việc di chuyển đó người dân được tiếp cận 
với môi trường mới và học hỏi được nhiều kiến thức để mở rộng sản xuất, kinh 
doanh nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sinh hoạt. Đây cũng là dấu 
hiệu bước đầu cho sự khơi dậy tính năng động, sáng tạo của người nông dân, 
xoá dần sức ỳ tâm lý của người dân ở nông thôn. 
Di dân từ nông thôn ra đô thị còn có những tác động quan trọng góp phần 
thay đổi cuộc sống gia đình ở nông thôn. Người nông dân vốn dĩ gắn bó sớm 
chiều với đồng ruộng, có người dường như cả đời không bước chân ra khỏi luỹ 
tre làng, không có cơ hội tiếp cận với cuộc sống văn minh đô thị. Trong khi đó, 
những người di dân hàng ngày tiếp xúc với cuộc sống sinh động ở đô thị với 
mức sống cao, điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần đầy đủ, trình độ dân trí 
15 Lê Văn Toàn (2001): Di dân tạm thời nông thôn – đô thị và vai trò của nó đối với sự phát 
triển kinh tế hộ gia đình người di dân, Đề tài cấp bộ, mã số XH2B -26, Hà Nội, tr.42. 
Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam – 2/2010 
80
cao Do đó, lối sống đô thị ít nhiều ảnh hưởng tới người di dân và chính họ sẽ 
là những người truyền tải những nét văn hoá: trong giao tiếp, trong sinh hoạt 
hàng ngày của người đô thị về nông thôn. Xét ở một khía cạnh nào đó, người di 
dân thông qua quá trình di chuyển đã và đang gián tiếp chuyển về nông thôn lối 
sống đô thị có chiều hướng tích cực, làm thay đổi diện mạo cuộc sống ở các 
vùng quê. 
Những người di dân cho biết, họ rất quan tâm đến việc giáo dục cho con, em 
mình, có tới 87,8% người được hỏi trả lời họ luôn khuyến khích, động viên con 
học tập lên cao hơn16. Có thể họ không có đủ khả năng, trình độ cũng như thời 
gian trong việc kèm con học ở nhà nhưng họ luôn tạo điều kiện tối đa cho con 
học tập. Họ đóng góp đầy đủ các khoản tiền học ở trường và động viên các em 
không chỉ học chính khoá mà còn tạo điều kiện cho các em học thêm, cũng như 
đảm bảo cho các em có thời gian học tập ở nhà. Như vậy, di dân được nhận 
định với vai trò không chỉ để tồn tại mà còn là để phát triển đối với các gia 
đình ở nông thôn. 
Di dân không chỉ để giải quyết bài toán kinh tế đặt ra đối với người ở nông 
thôn. Mà nó phần nào giải quyết được vấn đề “nhu cầu” lao động của các đô 
thị. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cùng với quá trình đô thị hoá 
diễn ra hết sức mạnh mẽ, nhiều nhu cầu dịch vụ mới xuất hiện, có những công 
việc mà người đô thị thực sự có nhu cầu sử dụng lao động, nhưng lực lượng lao 
động đô thị không đáp ứng được hoặc không muốn làm. Trong khi đó, người 
lao động ngoại tỉnh, đặc biệt là số người di dân thời vụ, sẵn sàng làm tất cả các 
công việc nặng nhọc, độc hại, với mục đích để có thu nhập. 
Tóm lại 
Di dân từ nông thôn ra đô thị trong tương lai vẫn tiếp tục diễn ra và có xu 
hướng gia tăng. Ở nước ta hiện nay, khi mà nền kinh tế vận hành theo cơ chế 
thị trường, sức lao động được giải phóng, người nông dân sau những tháng 
ngày bươn trải với đồng ruộng lại kéo ra các đô thị tìm kiếm việc làm để tăng 
thu nhập cho gia đình. Đây là một nhu cầu chính đáng. Trên thực tế, đối với 
người nông dân, việc phải rời xa quê hương là điều bất đắc dĩ. Bởi tâm lý tiểu 
nông từ bao đời nay vẫn là làm ăn yên ổn nơi quê nhà, nơi có tình làng nghĩa 
xóm, có bà con thân thuộc. Nhưng làn sóng đổi mới đã tác động mạnh mẽ đến 
xã hội nông thôn, làm xuất hiện tâm lý làm giàu, muốn vươn lên trong cuộc 
sống. Nhưng không phải ai cũng có khả năng sản xuất kinh doanh, có vốn để 
đầu tư vào các ngành nghề phi nông nghiệp khác17. Thêm vào đó, dân số tăng 
nhanh, diện tích đất canh tác không tăng, thậm chí còn giảm, thu nhập thấp, đời 
sống khó khăn, làm xuất hiện tình trạng dư thừa sức lao động ở nông thôn. 
16 Lê Văn Toàn (2001): Di dân tạm thời nông thôn – đô thị và vai trò của nó đối với sự phát 
triển kinh tế hộ gia đình người di dân, Đề tài cấp bộ, mã số XH2B -26, Hà Nội, tr.55. 
17 Nga My (1997): Di dân nông thôn - đô thị với nhà ở, một số vấn đề xã hội, Tạp chí Xã hội học, tr. 58. 
Di dân nông thôn  
81
Người nông dân không còn con đường nào khác là phải tự cứu lấy chính bản 
thân mình. Việc họ tìm mọi cách để kiếm sống và tìm đến các đô thị kiếm việc 
làm là một trong những giải pháp tình thế. Họ hy vọng sẽ tìm được việc làm, sẽ 
tích luỹ được đôi chút để gửi về cho gia đình, giúp đỡ gia đình thoát khỏi đói 
nghèo hoặc mua sắm, chi tiêu cải thiện đời sống. Có tới 92,1% số người được 
hỏi khẳng định tiếp tục ra đô thị làm việc trong tương lai18. Bởi đô thị là thị 
trường lao động đa dạng, có sức hút lớn đối với người lao động và mang lại thu 
nhập cao cho người di dân. 
Trong thời gian tới sẽ có sự phân hoá trong dòng di dân từ nông thôn ra đô 
thị. Thực tế cho thấy, người di dân không phải ai cũng có cơ hội, khả năng, 
điều kiện như nhau. Cùng với thời gian, một số người do năng lực hạn chế, gặp 
nhiều rủi ro không thể xoay chuyển được tình hình, họ an phận khuôn theo 
cuộc sống hiện tại. Một số người khác do có năng lực, lại gặp cơ may, có thể sẽ 
phất lên rồi định cư lại đô thị, mở mang sản xuất, kinh doanh và trở thành 
những ông chủ. Một số người khác tích luỹ vốn liếng, kỹ năng, họ trở lại quê 
hương đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. 
Xu hướng di dân là không thể đảo ngược trước đòi hỏi tái phân bổ lại lao 
động và phát triển sản xuất giữa nông thôn và đô thị. Vai trò của di dân từ nông 
thôn ra đô thị đối với sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn là không thể 
phủ nhận. Đó là việc giảm bớt lao động dư thừa, giảm bớt sức ép về ruộng đất, 
đồng thời phát triển và hình thành các loại hình dịch vụ đa dạng, năng động 
đáp ứng nhu cầu sức lao động của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, ngoài việc 
nâng thu nhập, cải thiện mức sống gia đình, thì việc học hỏi được nghề mới, 
những kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh còn có vai trò truyền tải các 
thang giá trị mới về nông thôn. Như vậy, di dân trên thực tế đã thúc đẩy quá 
trình luân chuyển giữa nông thôn và đô thị tạo ra những nhu cầu và lối sống 
mới ở làng quê, đồng thời góp phần tăng thu nhập, tạo nền tảng để phát triển 
kinh tế và thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở nông thôn. Nó được nhiều người dân 
nông thôn nhìn nhận như là giải pháp hữu hiệu nhất trong việc giải quyết bài 
toán kinh tế cho gia đình ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay. 
Ngoài những đóng góp tích cực của người di dân đối với gia đình nói riêng 
và làng xã nói chung. Di dân từ nông thôn ra đô thị cũng chứa đựng mặt tiêu 
cực như làm gia tăng tệ nạn xã hội; tình hình an ninh, trật tự xã hội trở nên 
phức tạp hơn; làm mất mỹ quan đô thị Quá trình di dân cũng tạo cơ hội cho 
một số tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm, số đề, lối sống không lành 
mạnhtràn về nông thôn. Tuy nhiên, di dân là hiện tượng có tính khách quan, 
tất yếu đối với bất kỳ quốc gia nào đang trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện 
18 Lê Văn Toàn (2001): Di dân tạm thời nông thôn – đô thị và vai trò của nó đối với sự phát 
triển kinh tế hộ gia đình người di dân, Đề tài cấp bộ, mã số XH2B -26, Hà Nội, tr.56 
Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam – 2/2010 
82
đại hoá. Do đó, chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của nó và có 
những chính sách thích hợp tạo điều kiện cần thiết để phát huy những mặt tích 
cực và hạn chế tác động tiêu cực của nó đến quá trình phát triển xã hội. 
Di dân từ nông thôn ra đô thị mang lại những đóng góp tích cực và thiết 
thực không chỉ cho nơi xuất cư (tạo việc làm cho lực lượng lao động dư thừa, 
tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao mức sống), mà cả cho nơi nhập cư 
(cung cấp lao động cho các ngành nghề độc hại, chứa đựng nhiều rủi ro..). điều 
đó cho thấy, bất cứ nỗ lực nào nhằm ngăn cản các dòng di dân trong khi chưa 
tìm được các giải pháp thay thế đều dẫn đến những khó khăn bất cập cho cả 
người di dân và không di dân. Do vậy, các nhà lãnh đạo, quản lý cần có những 
chính sách điều tiết để quá trình này diễn ra một cách có trật tự - có sự kiểm 
soát ở những mức độ nhất định. 
_____________________ 
Tµi liÖu tham kh¶o 
1. Đặng Nguyên Anh (2003): Di dân ở Việt Nam: kiếm tìm lời giải cho phát triển nông thôn, 
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế. 
2. Đặng Nguyên Anh (1998): Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di dân, Tạp chí Xã 
hội học. 
3. Đặng Nguyên Anh (1997): Vai trò của di dân nông thôn - đô thị trong sự phát triển kinh tế 
nông thôn hiện nay, Tạp chí Xã hội học. 
4. Đặng Nguyên Anh (1998): Di cư và phát triển trong bối cảnh đổi mới kinh tế - xã hội của 
đất nước, Tạp chí Xã hội học. 
5. Đặng Nguyên Anh (2005): Di dân trong nước: Vận hội và thách thức đối với công cuộc đổi 
mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb. Thế giới. 
6. Đặng Nguyên Anh (2005): Chiều cạnh giới của di dân lao động thời kỳ công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá đất nước, Tạp chí Xã hội học. 
7. Hoàng Văn Chức (2004): Di dân tự do đến Hà Nội - thực trạng và giải pháp quản lý, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
8. Lê Bạch Dương (1998): Nhà nước, kinh tế thị trường và di dân ở Việt Nam, Tạp chí Xã hội học. 
9. Nghiêm Xuân Đạt, Vũ Trọng Lâm, Nguyễn Quý Nghị (2001): Di dân tự phát vào Hà Nội - 
thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế. 
10. Tương Lai (1998): Về di dân ở Việt Nam trong quá khứ và hiện nay, Tạp chí Xã hội học. 
11. Lê Văn Toàn (chủ nhiệm) (2001): Di dân tạm thời nông thôn - đô thị và vai trò của nó đối 
với sự phát triển kinh tế hộ gia đình người di dân, Đề tài cấp bộ, mã số XH2B-26, Hà Nội. 
12. Đặng Thu (1994): Di dân của người Việt từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfdi_dan_nong_thon_va_vai_tro_cua_no_doi_voi_su_phat_trien_kin.pdf