Chính sách lao động & việc làm: Nhìn lại từ góc độ kinh tế vĩ mô

Nhận thức mới về phát triển trong thế giới hiện đại khẳng định: Phát

triển nguồn nhân lực là đỉnh cao nhất, là mục tiêu cuối cùng và cũng là

động lực mạnh nhất của mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội quốc gia

và quốc tế; Chính sách trung tâm của thời đại chúng ta là chính sách con

người và sự tham gia của con người vào tiến trình phát triển xã hội và

tiến bộ xã hội; Chính sách lao động - việc làm không chỉ bảo đảm ổn

định chính trị - xã hội, mà còn trực tiếp góp phần củng cố và nâng cao

chất lượng, sức mạnh kinh tế của đất nước. Hệ thống chính sách xã hội

phải dựa trên nền tảng cốt lõi nhất là coi trọng yếu tố con người và phát

huy đến mức cao nhất tiềm năng của con người, bảo đảm các yêu cầu có

tính nguyên tắc, đó là: Mọi người có việc làm, có thu nhập đảm bảo cuộc

sống hàng ngày; Thực hiện nguyên tắc công bằng, dân chủ, bình đẳng

trong mọi quan hệ xã hội trước pháp luật; Xây dựng một xã hội phát triển

tương đối đồng đều, giảm dần sự cách biệt giữa lao động chân tay và lao

động trí óc, giữa phụ nữ và nam giới, giữa nông thôn và thành thị, giữa

người giàu và người nghèo, giữa người có hoàn cảnh bất lợi, rủi ro với

người có hoàn cảnh thuận lợi.

Trên hành trình Đổi mới và hội nhập quốc tế, thực hiện mục tiêu xây

dựng một nước với “Dân giàu, nước mạnh, Dân chủ, công bằng, văn

minh”, cùng với các chính sách phát triển kinh tế, Việt Nam đã ban hành

một hệ thống chính sách xã hội hướng vào phục vụ lợi ích và phát triển

toàn diện con người, trong đó có các chính sách lao động- việc làm và

thu nhập, giáo dục, chăm sóc bảo vệ sức khoẻ, chính sách dân tộc và tôn

giáo, chính sách đối với người có công với đất nước.

pdf 7 trang yennguyen 4440
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách lao động & việc làm: Nhìn lại từ góc độ kinh tế vĩ mô", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách lao động & việc làm: Nhìn lại từ góc độ kinh tế vĩ mô

Chính sách lao động & việc làm: Nhìn lại từ góc độ kinh tế vĩ mô
CHÍNH SÁCH LAO ĐỘNG - VIỆC LÀM: NHÌN LẠI 
TỪ GÓC ĐỘ KINH TẾ VĨ MÔ 
 NGUYỄN MINH PHONG* 
I. NHỮNG NỖ LỰC VÀ THÀNH QUẢ TRONG CHÍNH SÁCH LAO ĐỘNG 
- VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM 2006 – 2010 
Nhận thức mới về phát triển trong thế giới hiện đại khẳng định: Phát 
triển nguồn nhân lực là đỉnh cao nhất, là mục tiêu cuối cùng và cũng là 
động lực mạnh nhất của mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội quốc gia 
và quốc tế; Chính sách trung tâm của thời đại chúng ta là chính sách con 
người và sự tham gia của con người vào tiến trình phát triển xã hội và 
tiến bộ xã hội; Chính sách lao động - việc làm không chỉ bảo đảm ổn 
định chính trị - xã hội, mà còn trực tiếp góp phần củng cố và nâng cao 
chất lượng, sức mạnh kinh tế của đất nước. Hệ thống chính sách xã hội 
phải dựa trên nền tảng cốt lõi nhất là coi trọng yếu tố con người và phát 
huy đến mức cao nhất tiềm năng của con người, bảo đảm các yêu cầu có 
tính nguyên tắc, đó là: Mọi người có việc làm, có thu nhập đảm bảo cuộc 
sống hàng ngày; Thực hiện nguyên tắc công bằng, dân chủ, bình đẳng 
trong mọi quan hệ xã hội trước pháp luật; Xây dựng một xã hội phát triển 
tương đối đồng đều, giảm dần sự cách biệt giữa lao động chân tay và lao 
động trí óc, giữa phụ nữ và nam giới, giữa nông thôn và thành thị, giữa 
người giàu và người nghèo, giữa người có hoàn cảnh bất lợi, rủi ro với 
người có hoàn cảnh thuận lợi... 
Trên hành trình Đổi mới và hội nhập quốc tế, thực hiện mục tiêu xây 
dựng một nước với “Dân giàu, nước mạnh, Dân chủ, công bằng, văn 
minh”, cùng với các chính sách phát triển kinh tế, Việt Nam đã ban hành 
một hệ thống chính sách xã hội hướng vào phục vụ lợi ích và phát triển 
toàn diện con người, trong đó có các chính sách lao động- việc làm và 
thu nhập, giáo dục, chăm sóc bảo vệ sức khoẻ, chính sách dân tộc và tôn 
giáo, chính sách đối với người có công với đất nước... 
Đặt trọng tâm vào công tác xoá đói, giảm nghèo, cùng với việc đẩy 
mạnh phát triển kinh tế, xã hội để nâng cao mức sống chung của nhân 
* TS. Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 5/2011 34
dân, Chính phủ đã ban hành và tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều chính 
sách, chương trình, dự án và huy động nguồn lực của toàn xã hội để trợ 
giúp người nghèo, vùng nghèo vượt qua khó khăn, vươn lên thoát nghèo. 
Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ 
trên cả 3 phương diện: (1) Giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các 
dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, 
nhà ở, nước sinh hoạt; (2) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính 
sách về bảo đảm đất sản xuất, tín dụng ưu đãi, khuyến nông - lâm - ngư, 
phát triển ngành nghề; (3) Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, 
thôn, bản đặc biệt khó khăn. Đến nay công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt 
được nhiều thành tựu nổi bật, được quốc tế đánh giá cao: số hộ nghèo 
giảm từ 29% năm 2002 xuống còn khoảng 10% năm 2010; chênh lệch 
mức sống giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống 
còn 2 lần năm 2008. Đã tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình mục 
tiêu quốc gia về việc làm với nhiều chính sách trợ giúp thiết thực, hàng 
năm giải quyết được hơn 1,6 triệu việc làm mới cho người lao động, 
giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị từ 6,42% năm 2000 xuống 
còn khoảng 4,6% năm 2010, tăng thời gian sử dụng lao động ở nông 
thôn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân dân. Thu nhập 
thực tế bình quân đầu người 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần. 
Hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế được quan tâm phát triển 
với nội dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và 
trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. Bảo hiểm xã hội được 
triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự 
nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc 
tăng nhanh, từ 4,8 triệu năm 2001 lên 9,4 triệu năm 2009, chiếm 18% 
tổng số lao động. Sau gần 3 năm triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện, 
đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người tham gia. Dự kiến đến hết 
năm 2010 có khoảng 5,8 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Bảo 
hiểm y tế tăng nhanh từ 13,4% dân số năm 2000 lên khoảng 62% năm 
2010. Đặc biệt, đã thực hiện chính sách bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ 
em đến 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ bảo 
hiểm y tế cho các hộ cận nghèo,... 
Các chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được hoàn 
thiện. Mức trợ cấp ưu đãi năm 2009 tăng 2,1 lần so với năm 2006. Năm 
2010 ngân sách trung ương đã dành gần 19.000 tỷ đồng để thực hiện 
chính sách ưu đãi thường xuyên cho hơn 1,4 triệu người có công. Đến 
Chính sách lao động 35
nay, hơn 90% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn 
mức trung bình của dân cư cùng địa bàn. 
Các chính sách trợ giúp xã hội, cả thường xuyên và đột xuất được thực 
hiện rộng hơn về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày 
càng tăng. Kinh phí trợ giúp thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số 
người được thụ hưởng tăng nhanh, từ 113 tỷ đồng cho hơn 180 nghìn 
người năm 2001 tăng lên 4.500 tỷ đồng cho hơn 1,6 triệu người năm 
2010. Hàng năm Nhà nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỷ đồng 
(riêng năm 2009 là 5.000 tỷ đồng) và hàng chục nghìn tấn lương thực, 
chủ yếu là để trợ giúp khắc phục thiên tai. Từ đầu năm 2008, Chính phủ 
đã có nhiều chính sách và giải pháp kịp thời, thiết thực nhằm hạn chế tối 
đa các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái 
kinh tế toàn cầu đến sản xuất và đời sống của dân chúng. 
Hệ thống các dịch vụ xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ dân 
chúng, giáo dục và đào tạo, văn hoá, thông tin, cung cấp điện, nước sinh 
hoạt, bảo đảm điều kiện đi lại đã được quan tâm phát triển, nhất là ưu 
tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng 
đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lượng các dịch vụ nhiều mặt được cải 
thiện và khả năng tiếp cận của dân chúng ngày càng được nâng cao. Đến 
nay 100% số xã, phường đã có trạm y tế, trong đó khoảng 75% số xã có 
bác sỹ; cả nước hiện có khoảng 23 triệu người đang theo học ở các cấp bậc 
học, đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; 82,5% số 
hộ nông thôn đã được sử dụng nước hợp vệ sinh; 96,1% số hộ đã được sử 
dụng điện lưới; 86,9% số hộ sử dụng máy thu hình; trên 97% số xã đã có 
đường ô tô đi tới trung tâm xã; khoảng 90% số xã có trạm bưu điện văn 
hoáNhờ vậy, chỉ số phát triển con người ở Việt Nam đã nâng cao đời 
sống vật chất và tinh thần của dân chúng được nâng lên rõ rệt. 
Việt Nam cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo công tác đào tạo nghề quốc 
gia. Đặc biệt, ngày 27/11/2009, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 
1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn 
đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Với mục tiêu Nhà nước chi ngân 
sách xấp xỉ 26.000 tỷ đồng để khi kết thúc vào năm 2020, sẽ đào tạo 
nghề cho gần 10 triệu lao động nông thôn làm việc ở khu vực nông 
nghiệp và phi nông nghiệp, và bồi dưỡng đào tạo 1 triệu cán bộ công 
chức cấp xã, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo 
việc làm tăng thu nhập của lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ 
cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH nông 
nghiệp nông thôn. Đây là Đề án có quy mô lớn nhất và có sự hỗ trợ cho 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 5/2011 36 
học viên, giáo viên nhiều nhất (theo Đề án 1956, Lao động nông thôn 
thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi được hỗ trợ chi phí học nghề 
ngắn hạn với mức tối đa 3 triệu đồng/người/khóa học; hỗ trợ tiền ăn với 
mức 15.000 đồng/ngày thực học/người; hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao 
thông công cộng với mức tối đa không quá 200.000 đồng/người/khoá 
học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15km trở lên; Lao động nông 
thôn thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo 
được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn với mức tối đa 2,5 triệu 
đồng/người/khóa học; Lao động nông thôn khác được hỗ trợ chi phí học 
nghề ngắn hạn với mức tối đa 2 triệu đồng/người/khóa học; Lao động 
nông thôn học nghề được vay để học theo quy định hiện hành về tín dụng 
đối với học sinh, sinh viên. Lao động nông thôn làm việc ổn định ở nông 
thôn sau khi học nghề được ngân sách hỗ trợ 100% lãi suất đối với khoản 
vay để học nghề), với số lượng đào tạo lớn nhất và trong thời gian dài 
nhất từ trước tới nay hướng tới khu vực lao động nông thôn, gắn đào tạo 
nghề với dự báo xu hướng yêu cầu của thị trường lao động. Bộ Nông 
nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với Bộ Lao động - Thương 
binh và Xã hội thống nhất xây dựng danh mục 180 nghề nông nghiệp 
trình độ sơ cấp để dạy nghề cho lao động nông thôn, đồng thời triển khai 
xây dựng chương trình tài liệu học nghề năm 2010 đối với 25 loại nghề 
phổ biến ở 3 miền đất nước. 
II. NHỮNG BÀI HỌC VỀ CHÍNH SÁCH LAO ĐỘNG - VIỆC LÀM 
Tuy nhiên, việc bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội vẫn còn bất cập và 
yếu kém: giảm nghèo chưa bền vững, số hộ cận nghèo còn nhiều, tỷ lệ hộ 
tái nghèo hàng năm còn cao. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở 
vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, khoảng cách thu nhập 
của các tầng lớp dân cư còn lớn. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở 
vùng đô thị hoá và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực cho an 
sinh xã hội và phúc lợi xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách 
nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp. Các hình thức bảo 
hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các 
dịch vụ nhìn chung còn thấp, vẫn còn không ít tiêu cực, phiền hà. 
Những yếu kém, bất cập trên đây trước hết là do công tác lãnh đạo, 
quản lý còn nhiều yếu kém, hiệu lực hiệu quả chưa cao, nhận thức về bảo 
đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội chưa đầy đủ. Chưa hình thành 
được hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội rộng khắp với những cơ 
chế chủ động tích cực, bền vững, làm chỗ dựa vững chắc cho người 
nghèo, hộ nghèo tự vươn lên thoát nghèo. Chưa huy động được mạnh mẽ 
Chính sách lao động 37 
sự tham gia của toàn xã hội vào công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc 
lợi xã hội. 
Nhìn từ góc độ kinh tế vĩ mô, thực tế xây dựng và triển khai chính sách 
lao động-việc làm thời gian qua cho thấy những bài học đáng lưu ý sau: 
 Thứ nhất, cần “nâng cấp” và thống nhất cao về quan điểm, nhận 
thức chung của các các nhà hoạch định chính sách và doanh nghiệp, 
cũng như của bản thân người lao động là phải thực sự coi chính sách lao 
động -việc làm không chỉ là dạng chính sách an sinh xã hội, mà cần là 
một bộ phận hợp thành, có vai trò quan trọng và ngày càng tích cực, 
năng động nhất trong tổng thể chính sách kinh tế vĩ mô. 
Chính sách đầu tư cho lao động-việc làm là chính sách đầu tư cho phát 
triển và trực tiếp, cũng như gián tiếp, trước mắt và lâu dài tạo ra, duy trì và 
thúc đẩy sự ổn định và phát triển kinh tế-xã hội. Chính sách lao động-việc 
làm cần được thực hiện đồng bộ và đồng thời, thậm chí đi trước một bước 
với các chính sách kinh tế khác. Các dự án lấy đất cho phát triển công 
nghiệp phải có kế hoạch chi tiết và khả thi về tuyển dụng, tạo nghề mới 
cho các lao động trong diện người dân bị thu hồi đất. Đặc biệt, công tác 
đào tạo nghề cần bám sát nhu cầu thị trường và đi trước, đón đầu các quy 
hoạch phát triển kinh tế-xã hội ở các địa phương, nhất là những địa bàn có 
tốc độ đô thị hóa nhanh và tốc độ tái cấu trúc kinh tế-xã hội mãnh liệt. 
Đồng thời, để việc triển khai dạy nghề, học nghề có hiệu quả kinh tế 
thực sự, tránh hình thức và lãng phí xã hội trong quá trình triển khai các 
đề án đào tạo nghề, cần bảo đảm đầu tư đủ mức theo yêu cầu dậy và học 
nghề (rõ ràng với mức 2-3 triệu đồng /người / khóa học như hiện nay là 
quá thấp để nâng cao căn bản chất lượng dạy và học nghề của người lao 
động), tránh tư tưởng bình quân chủ nghĩa như kiểu “phát chẩn”, cứu 
đói; Mặt khác, cần tăng cường công tác tuyên truyền , linh hoạt và thiết 
thực về nội dung và phương thức đào tạo nghề, gắn với thực tế đối tượng 
học nghề, cũng như gằn với chương trình việc làm cụ thể của mỗi địa 
phương, để các đối tượng lao động nông thôn ở vùng sâu, vùng xa, nhất 
là vùng núi không bị lúng túng trong việc xác định nghề học, sắp xếp 
thời gian học. Hơn nữa, cần chú ý yêu cầu dậy nghề theo hướng tạo việc 
làm tại chỗ, trong đó có đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công 
nghệ cao, hoặc thúc đẩy quá trình tái cấu trúc toàn diện kinh tế và xã hội 
nông thôn theo tinh thần “ly nông bất ly hương”, để người lao động 
sống ở nông thôn sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề có thể tăng 
khả năng và chủ động tìm kiếm, tạo lập công việc, thu nhập ngay tại quê 
nhà, không phải đi xa, giảm bớt áp lực quá tải, phi kinh tế lên các đô thị. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 5/2011 38
Thứ hai, cần gắn kết chính sách lao động- việc làm với chính quá 
trình và kế hoạch tổng thể về tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và 
phát triển bền vững; chủ động phát triển có tổ chức các thị trường lao 
động có nhiều tiềm năng và hiệu quả kinh tế cao, nhất là thị trường lao 
động chất lượng cao về kinh tế nông nghiệp cao, kinh tế biển, công nghệ 
thông tin và xuất khẩu lao động. 
Chất lượng lao động thấp dẫn đến chất lượng và hiệu quả việc làm nói 
riêng, nền kinh tế nói chung cũng thấp và thiếu ổn định. Việt Nam hiện 
đang có số lượng lao động thất nghiệp khá lớn, trong khi mỗi năm có 
thêm trên 1,5 triệu người mới đến tuổi lao động, song vẫn phải chấp nhận 
khoảng trên 40.000 lao động nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam.. 
Về mặt kinh tế, không đầu tư nâng cao chất lượng cho lao động, sẽ 
không đáp ứng được đòi hỏi về nhân lực của các dự án đầu tư nước 
ngoài, cũng như trong nước theo yêu cầu tái cấu trúc, đẩy nhanh phát 
triển theo chiều sâu, tăng áp dụng công nghệ cao, sản xuất sạch hơn, có 
hàm lượng chế biến và giá trị gia tăng cao, do đó hiệu quả hơn. 
Vì vậy, Việt Nam cần sớm bổ sung các chính sách lao động-việc làm 
mới, tập trung phát triển nguồn nhân lực trình độ cao trong các ngành, 
lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc đạt được tốc độ và 
hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao, như kinh tế nông nghiệp sử dụng công 
nghệ cao, kinh tế biển, công nghệ - thông tin và xuất khẩu lao động có kỹ 
thuật, cũng như khai thác tốt đội ngũ lao động từ nước ngoài trở về nước 
sau khi kết thúc hợp đồng lao động ở nước ngoài. Điểm đáng lưu ý là, 
cần tạo môi trường áp lực cao để người lao động Việt Nam khắc phục 
ảnh hưởng của lao động trong nền sản xuất nhỏ, tiểu nông, manh mún, 
được học tập và rèn luyện trong các trường dạy nghề trọng điểm chất 
lượng cao, trường đại học đẳng cấp quốc tế, được quản lý theo mục tiêu 
bảo đảm chất lượng đào tạo và gắn với nhu cầu của xã hội. Đồng thời, 
cần tăng cường hợp tác quốc tế để tiếp tục sửa đổi toàn diện Bộ Luật Lao 
động, xây dựng Luật Tiền lương tối thiểu, Luật Việc làm và các chính 
sách có liên quan; lồng ghép chiến lược, chính sách lao động việc làm và 
mục tiêu về việc làm; tăng cường công tác an toàn vệ sinh lao động trong 
nông nghiệp, trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa; xây dựng quỹ bồi 
thường tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 
Thứ ba, cần quy định và thực thi linh hoạt các công cụ kinh tế phù 
hợp nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động, bảo đảm hiệu lực và hiệu 
quả chính sách lao động-việc làm trên thực tế. 
Chính sách lao động 39
Để thực hiện mục tiêu của Chính sách lao động-việc làm cần có sự phối 
hợp đồng bộ các giải pháp, các cấp, ngành và địa phương có liên quan, 
trong đó có các công cụ chính sách kinh tế, như tài chính-tín dụng và đầu 
tư, các ưu đãi và trợ cấp kinh tế khác được thiết kế phù hợp thực tế và 
minh bạch, tránh hình thức và gây khó hay lạm dụng trong thực hiện. 
Thứ tư, chính sách lao đông - việc làm cần đáp ứng được yêu cầu phát 
triển bền vững. 
Theo tinh thần đó, cần tăng cường đưa các dự án tạo việc làm về các 
vùng nông nghiệp, nông thôn. Chính sách thuế, tiền lương và việc làm 
cần cân nhắc tới và đồng bộ với những yêu cầu và biện pháp khuyến 
khích bảo vệ môi trường các làng nghề và đô thị; tạo công ăn việc làm 
thực sự và lâu dài cho người lao động tại nơi họ sinh ra; giảm thiểu dòng 
di dân tự do gây đổ vỡ các quy hoạch phát triển, phá hoại cảnh quan địa 
phương và giảm tải sức ép lên các cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội ở các 
trung tâm kinh tế vùng và cả nước; đề cao chất lượng sống thực tế của 
người lao động. Ngoài ra, dưới góc độ kinh tế vĩ mô, chính sách lao 
đông-việc làm không thể không gắn với chính sách thu nhập, bảo đảm an 
sinh và công bằng xã hội, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và công tác dân 
số, kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em; 
trong đó, dân số là mẫu số của chung, nền tảng để giải các bài toán khác; 
Đồng thời, cần tăng cường các chương trình tạo việc làm đa dạng được 
tài trợ từ các nguồn đa dạng, với chủ lực là nguồn Ngân sách Nhà nước 
các cấp và linh hoạt trong quản lý, giám sát, giảm thiểu tình trạng lạm 
dụng, tiêu cực và tham nhũng trong công tác lao động-việc làm, trước 
mắt tập trung xây dựng và triển khai có hiệu quả Chiến lược an sinh xã 
hội 2011 - 2020, Chương trình giảm nghèo bền vững và chương trình 
việc làm giai đoạn 2011 - 2015; phấn đấu để năm 2011 tỉ lệ hộ nghèo 
giảm 2% theo chuẩn mới; phát triển các loại hình bảo hiểm, mở rộng 
mạng lưới an sinh xã hội./. 
____________________ 
Tài liệu tham khảo 
1. Nghị quyết các phiên họp định kỳ của Chính phủ (những năm 2007-2010); 
2. Báo cáo Thống kê Việt Nam hàng tháng và năm - Tổng cục Thống kê; 
3. TS. Nguyễn Minh Phong, 2010, “Tái cấu trúc kinh tế Hà Nội theo hướng hiện đại và phát 
triển bền vững” - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Thành phố, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_lao_dong_viec_lam_nhin_lai_tu_goc_do_kinh_te_vi_m.pdf