Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Khoa học xã hội Việt Nam

Đại hội*Đại biểu toàn quốc lần thứ XI

của Đảng đã thông qua những Văn kiện

quan trọng, mang tầm định hướng chiến

lược, vạch ra đường lối, nhiệm vụ cách

mạng Việt Nam trong giai đoạn mới trên

tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã

hội, trong đó có vấn đề khoa học và công

nghệ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ

sung, phát triển năm 2011) đã vạch rõ

những định hướng lớn về phát triển khoa

học - công nghệ trong thời kỳ mới: Khoa

học và công nghệ giữ vai trò then chốt

trong việc phát triển lực lượng sản xuất

hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường,

nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,

tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền

kinh tế Phát triển khoa học và công nghệ

nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri

thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế

giới.

pdf 11 trang yennguyen 940
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Khoa học xã hội Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Khoa học xã hội Việt Nam

Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Khoa học xã hội Việt Nam
 CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC 
NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 
KIỀU QUỲNH ANH* 
Đại hội*Đại biểu toàn quốc lần thứ XI 
của Đảng đã thông qua những Văn kiện 
quan trọng, mang tầm định hướng chiến 
lược, vạch ra đường lối, nhiệm vụ cách 
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới trên 
tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã 
hội, trong đó có vấn đề khoa học và công 
nghệ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ 
sung, phát triển năm 2011) đã vạch rõ 
những định hướng lớn về phát triển khoa 
học - công nghệ trong thời kỳ mới: Khoa 
học và công nghệ giữ vai trò then chốt 
trong việc phát triển lực lượng sản xuất 
hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, 
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, 
tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền 
kinh tế Phát triển khoa học và công nghệ 
nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri 
thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế 
giới. 
Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác định, 
trong 5 năm (2011 - 2015) cần phải thực 
hiện ba nhiệm vụ trọng tâm là: 
Phát triển năng lực khoa học và công 
nghệ có trọng tâm, trọng điểm, tập trung 
cho những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi 
nhọn. 
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, tổ 
chức, hoạt động khoa học và công nghệ, 
xem đó là khâu đột phá để thúc đẩy phát 
* Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 
triển và nâng cao hiệu quả của khoa học, 
công nghệ. 
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng; phát 
triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự 
nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. 
Khoa học xã hội có chức năng nghiên 
cứu cơ bản và toàn diện về xã hội và con 
người, nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho 
việc hoạch định chính sách, góp phần nâng 
cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực 
cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất 
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Khoa học xã hội Việt nam cần nghiên cứu 
các vấn đề lý luận và thực tiễn và kiến nghị 
những giải pháp khả thi, đồng bộ để thực 
hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất 
nước trong thời kỳ đổi mới. 
Mục tiêu tổng quát, Quy hoạch phát 
triển nhân lực của Viện Khoa học xã hội 
Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 là: từ nay 
đến năm 2020, xây dựng Viện Khoa học xã 
hội Việt Nam thành một trung tâm nghiên 
cứu khoa học và đào tạo quốc gia mạnh, có 
uy tín cao trong nước và quốc tế, góp phần 
xây dựng và phát triển nền khoa học xã hội 
Việt Nam có khả năng phát hiện, dự báo 
những xu hướng phát triển của Việt Nam 
và thế giới; luận giải những vấn đề lý luận 
và thực tiễn về phát triển bền vững theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, 
để đến năm 2020, đưa Việt Nam về cơ bản 
trở thành nước công nghiệp theo hướng 
hiện đại. 
Chính sách phát triển nguồn nhân lực 
35 
Mục tiêu chung của phát triển nhân lực 
ngành khoa học xã hội trong thời gian tới, 
là xây dựng một đội ngũ nhân lực khoa học 
xã hội đạt trình độ tiên tiến trong khu vực 
và tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trên 
thế giới; có cơ cấu trình độ, ngành nghề và 
vùng miền hợp lý; có đủ năng lực góp phần 
đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém 
phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và 
vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Xây 
dựng con người Việt Nam có sức khỏe tốt, 
tự học, tự đào tạo, năng động, sáng tạo, có 
tri thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, 
thích nghi với môi trường biến đổi không 
ngừng. 
Ngành Khoa học xã hội không chỉ có 
nhu cầu nhân lực tại thành phố, mà còn rất 
cần cho sự phát triển của các vùng nông 
thôn và miền núi và đặc biệt ở những vùng 
kinh tế trọng điểm. Để đạt được những 
mục tiêu trên đây, ngành khoa học xã hội 
Việt Nam cần thực hiện các chính sách 
phát triển nguồn nhân lực sau: 
1. Xây dựng đội ngũ chuyên gia 
Để thực hiện mục tiêu phát triển nhân 
lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020, theo 
Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 
19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ là: 
xây dựng được đội ngũ nhân lực khoa học 
và công nghệ, đặc biệt là nhóm chuyên gia 
đầu ngành có trình độ chuyên môn - kỹ 
thuật tương đương các nước tiên tiến trong 
khu vực, có đủ năng lực nghiên cứu, tiếp 
nhận, chuyển giao và đề xuất những giải 
pháp khoa học, công nghệ, giải quyết về cơ 
bản những vấn đề phát triển của đất nước 
và hội nhập với các xu hướng phát triển 
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và công 
nghệ trên thế giới, các Viện nghiên cứu cần 
nỗ lực toàn diện. 
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn 
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất 
lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu 
tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng 
dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền 
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và 
là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo 
đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền 
vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ 
cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ 
chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao 
động lành nghề và cán bộ khoa học, công 
nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp 
ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công 
nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh 
vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt 
chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng 
lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để 
phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã 
hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào 
tạo nhân lực chất lượng cao đối với các 
ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú 
trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân 
tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế 
tri thức. 
* Hoàn thiện quy hoạch phát triển đội 
ngũ cán bộ nghiên cứu có trình độ cao. Cần 
nghiên cứu xây dựng bản mô tả tiêu chuẩn 
công việc và từ đó định hướng các điều 
kiện, tiêu chuẩn tối thiểu cho người làm 
nghiên cứu khoa học. Đồng thời, áp dụng 
các phương pháp dự báo hiện đại và xây 
dựng các kế hoạch dài hạn về nguồn nhân 
lực. 
* Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá, 
định kỳ nhận xét cán bộ; xây dựng bản mô 
tả công việc đối với từng vị trí công tác. 
 Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam – 9/2012 
36 
Nhận xét, đánh giá cán bộ, viên chức 
không chỉ căn cứ vào lời nói, mà cần ở 
việc làm, sự cống hiến của họ. Do đó, cần 
có cơ chế năng động để điều chỉnh thích 
hợp. Việc nhận xét, đánh giá đội ngũ cán 
bộ phải công tâm, khách quan; phát huy 
dân chủ để nắm bắt thông tin đầy đủ, nhiều 
chiều về đội ngũ này và bảo đảm các yêu 
cầu của việc đánh giá (phù hợp, tin cậy, 
thực tiễn). 
2. Tăng cường đầu tư nguồn lực 
* Ban hành chính sách huy động các 
nguồn lực để phục vụ nghiên cứu về các 
lĩnh vực khoa học xã hội. 
Các nghiên cứu về khoa học xã hội đòi 
hỏi kinh phí rất lớn mà ngân sách nhà nước 
lại ít. Thực hiện chính sách xã hội hóa giáo 
dục đại học để thu hút năng lực về vốn. 
Chủ trương học đi đôi với hành, nhằm 
khắc phục trình trạng phố biến ở nước ta 
hiện nay là trường đại học quá lạc hậu so 
với thực tế sản xuất về mặt khoa học công 
nghệ. 
* Xây dựng mức học phí hợp lý, giao 
quyền tự chủ về tài chính cho các trường 
đại học. 
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần nghiên cứu 
để điều chỉnh mức học phí sao cho đảm 
bảo nhiều người có điều kiện học đại học, 
trong khi các trường đại học vẫn có đủ 
kinh phí cho đào tạo và phát triển. 
Ngoài ra nên giao quyền tự chủ về tài 
chính cho các trường đại học trong việc 
tìm nguồn kinh phí cho quá trình đào tạo 
và phát triển nguồn nhân lực, như kêu gọi 
các tổ chức tài trợ, liên kết đào tạo với các 
trường ở nước ngoài. 
* Nhà nước cần ban hành một số văn 
bản quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của 
doanh nghiệp khi tham gia cùng với các cơ 
sở đào tạo, đào tạo nhân lực ngành khoa 
học xã hội cũng như đào tạo các chuyên 
gia cho ngành. 
* Hợp tác đào tạo với các trường đại 
học, viện nghiên cứu ở các quốc gia phát 
triển trên cơ sở ký kết hợp tác song phương 
và đa phương, các chương trình học bổng 
của Ban Tổ chức Trung ương, của Bộ Giáo 
dục và Đào tạo, của một số tổ chức Phi 
chính phủ khác. 
* Đẩy mạnh phong trào khuyến học, 
khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở 
rộng các phương thức đào tạo từ xa và hệ 
thống các trung tâm học tập cộng đồng, 
trung tâm giáo dục thường xuyên. Thực 
hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các 
chính sách xã hội trong giáo dục. 
Nghiên cứu đề xuất đổi mới cơ chế quản lý 
đầu tư và tài chính cho khoa học và công 
nghệ phù hợp với đặc thù của hoạt động 
khoa học và công nghệ theo hướng chú 
trọng đầu tư cho chất xám tạo động lực cho 
các tổ chức sự nghiệp khoa học và công 
nghệ hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu 
trách nhiệm. 
* Thay đổi cơ cấu đầu tư thực hiện các 
nhiệm vụ khoa học và công nghệ, trong đó 
nâng cao tỷ lệ đầu tư kinh phí ngoài ngân 
sách Nhà nước, tập trung đầu tư tạo ra 
công nghệ mới, sản phẩm công nghệ mới 
có hàm lượng chất xúc tác cao góp phần 
quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
của xã hội. 
* Tăng cường cơ chế đặt hàng nhằm huy 
động và thu hút các chuyên gia, các nhà 
khoa học trong và ngoài nước tham gia tích 
Chính sách phát triển nguồn nhân lực 
37 
cực giải quyết những vấn đề bức xúc của 
thành phố và các vấn đề liên quan đến phát 
triển bền vững, ứng phó biến đổi khí hậu 
và hội nhập kinh tế quốc tế. 
* Đẩy mạnh công tác phổ biến, chuyển 
giao và ứng dụng các kết quả nghiên cứu 
khoa học vào thực tế. Xây dựng các tiêu 
chí đánh giá hiệu quả hoạt động khoa học 
và công nghệ phù hợp với thông lệ quốc tế. 
3. Hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi 
dưỡng nguồn nhân lực 
Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu rõ: Phải 
đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục 
quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại 
hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập 
quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý 
giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và 
cán bộ quản lý là khâu then chốt. Để hiện 
thực hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, 
cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn 
nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh 
tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Đây 
không chỉ là trách nhiệm của các nhà 
hoạch định và tổ chức thực hiện chính 
sách, mà còn là trách nhiệm của cả hệ 
thống chính trị và của mỗi cá nhân. Bản 
thân người học phải tự thay đổi chính 
mình, cần xác định mục tiêu và định hướng 
nghề nghiệp cụ thể, lâu dài, từ đó tập trung 
tích lũy và xây dựng kho kiến thức, kỹ 
năng cần thiết cho bản thân. Kinh nghiệm 
của nhiều nước cho thấy rõ, coi trọng và 
quyết tâm thực thi chính sách giáo dục - 
đào tạo phù hợp là nhân tố quyết định tạo 
ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự 
phát triển nhanh và bền vững. 
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng 
đầu. Tập trung nâng cao chất lượng giáo 
dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, 
lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực 
hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế 
tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định 
chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các 
bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục 
lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà 
trường với gia đình và xã hội. 
Trước hết, đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo 
lại theo quy mô và điều chỉnh lại cơ cấu 
nhân lực phù hợp với đơn vị, ngành; hình 
thành và phát triển những kiến thức, kỹ 
năng và thái độ nghề nghiệp, kỹ năng sống 
của người lao động; bố trí và sử dụng nhân 
lực phù hợp với trình độ và ngành, nghề 
được đào tạo, theo nhu cầu tổ chức công 
việc tại mỗi đơn vị; chăm sóc sức khoẻ và 
tạo môi trường tốt để người lao động phát 
triển năng lực, thể lực và phẩm chất đạo 
đức nghề nghiệp trong quá trình hành 
nghề. Đồng thời, tạo điều kiện cho người 
lao động có đủ năng lực và điều kiện để 
gắn bó với nghề nghiệp và có thể chuyển 
đổi nghề và vị trí làm việc khi có yêu cầu. 
Trước yêu cầu ngày càng cao về chất 
lượng đào tạo chuyên môn nghiệp vụ của 
ngành, cần: 
* Nâng cao chất lượng và phát triển đội 
ngũ cán bộ giảng viên để giải quyết tình 
trạng thiếu giảng viên hiện nay và giảm tỷ 
lệ sinh viên/giảng viên xuống còn 20 sinh 
viên/giảng viên. Bộ Giáo dục và Đào tạo 
cần nghiên cứu giao quyền tự chủ cho các 
trường đại học và cao đẳng trong việc 
quyết định biên chế cho phù hợp với nhu 
cầu đào tạo của trường. Trên cơ sở đó các 
trường dựa vào nhu cầu về số lượng và 
chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên để tiến 
hành tuyển dụng. 
 Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam – 9/2012 
38 
* Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương 
trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các 
cấp, bậc học. Mở rộng và nâng cao chất 
lượng đào tạo ngoại ngữ. Nhà nước tăng 
đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy 
động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo 
dục. Phát triển nhanh và nâng cao chất 
lượng giáo dục ở vùng khó khăn, vùng núi, 
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 
Đội ngũ giảng viên cần phải cập nhật 
thường xuyên chương trình đào tạo mới, 
đổi mới phương pháp giảng dạy, tránh học 
chay, học tập phải gắn với thực tiễn xã hội. 
* Các Bộ, Ban, ngành phối hợp để đào 
tạo nguồn nhân lực ngành khoa học xã hội 
cho đất nước. Nhà nước cần phân định rõ 
trách nhiệm giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo 
với các Bộ, Ban, ngành trong việc quản lý 
đào tạo. 
* Hoàn chỉnh mạng lưới các cơ sở đào 
tạo, bồi dưỡng về lĩnh vực khoa học xã hội 
trên phạm vi toàn quốc, có sự phân tầng rõ 
rệt, cơ cấu trình độ hợp lý, đáp ứng nhu 
cầu đào tạo nguồn nhân lực khoa học xã 
hội cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước. 
Kết hợp tốt mối liên kết nghiên cứu - 
đào tạo - chuyển giao giữa đơn vị đào tạo 
và đơn vị sử dụng nguồn nhân lực xã hội. 
Xây dựng mạng lưới đào tạo, bồi dưỡng 
liên thông các cấp đào tạo, phân bố rộng 
khắp cả nước. 
Đảm bảo chất lượng đào tạo, bồi dưỡng 
nguồn nhân lực khoa học xã hội. 
Thể chế hóa những nội dung liên quan 
đến đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ và tôn vinh 
tri thức về khoa học công nghệ theo tinh 
thần Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về 
xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy 
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 
nước. 
4. Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực 
Thực tế, sử dụng nguồn nhân lực xã hội 
là quá trình thu hút và phát huy lực lượng 
lao động xã hội vào hoạt động lao động xã 
hội, nhằm tạo ra của cải vật chất và tinh 
thần, đáp ứng cho nhu cầu của mọi thành 
viên trong xã hội. Sử dụng có hiệu quả 
nguồn nhân lực xã hội là phát huy cao độ 
mọi tiềm năng của con người vào lao động 
sản xuất, được thể hiện ở 2 khía cạnh: mức 
thu hút lao động vào hoạt động sản xuất xã 
hội và trình độ phát huy mọi tiềm năng sẵn 
có của lực lượng lao động trong quá trình 
hoạt động (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh 
nghiệm, sáng tạo). Cụ thể hơn, sử dụng 
nguồn nhân lực là quá trình kết hợp sức lao 
động với tư liệu lao động và đối tượng lao 
động nhằm tạo ra sản phẩm, dịch vụ cần 
thiết. Sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả 
thể hiện ở mức độ sử dụng thời gian lao 
động trong quá trình làm và mức tăng năng 
xuất lao động cá nhân. 
Thực chất của việc sử dụng nguồn nhân 
lực xã hội là: Tạo việc làm hay giải quyết 
việc làm cho nguồn nhân lực xã hội, nhằm 
tạo ra đời sống ổn định cho nguồn nhân lực 
xã hội. 
Bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực 
phải đi liền với việc sử dụng và trọng dụng 
nguồn nhân lực, coi sử dụng và trọng dụng 
nguồn nhân lực chính là đích cuối cùng, 
phản ánh hiệu quả của bồi dưỡng và đào 
tạo nguồn nhân lực. Khi xác  ... ghề nghiệp. Chính sách này phải được thể 
hiện bằng các chủ trương và hành động cụ 
thể của Nhà nước và của ngành Khoa học 
xã hội Việt Nam. Nhà nước tạo ra môi 
trường pháp lý chặt chẽ, ổn định và bình 
đẳng thông qua việc ban hành và thực hiện 
đầy đủ các văn bản pháp quy về phát triển 
cân đối nguồn lực và bảo vệ quyền lợi của 
người lao động như ban hành Luật Công 
đoàn, quy định mức lương tối thiểu, quyền 
bình đẳng giới v..v 
Sử dụng hợp lý nguồn nhân lực là phải 
coi trọng phẩm chất và năng lực của người 
lao động. Phân công công việc đúng năng 
lực để phát huy tối đa khả năng của cán bộ, 
việc đánh giá cán bộ, viên chức cũng cần 
đảm bảo một số những nguyên tắc: 
Đảm bảo tính dân chủ, tập thể quyết 
định, thảo luận một cách dân chủ trên cơ sở 
tự phê bình và phê bình. 
Đảm bảo tính khách quan, toàn diện, 
công khai. 
Phân loại, đánh giá cán bộ căn cứ vào vị 
trí, đặc điểm công tác khác nhau mà sử 
dụng những tiêu chí đánh giá sao cho phù 
hợp. Nguyên tắc lấy hiệu quả công việc 
thực tế, mức độ hoàn thành công việc, 
thành tích là thước đo chuẩn mực nhất, nó 
phản ánh tổng hợp các yếu tố năng lực, 
thái độ, hành vi và chất lượng công việc 
của cán bộ, viên chức. 
Phải xây dựng cơ chế pháp quyền và 
tuyển chọn, phát hiện nhân tài bằng 
phương pháp công khai, dân chủ, minh 
bạch, đồng thời phải có cơ chế giám sát 
việc thực thi cơ chế pháp quyền ấy trong 
thực tế, ngăn chặn và triệt tiêu có hiệu quả 
hiện tượng ngược đãi nhân tài như dư luận 
lên tiếng, phẫn nộ trong thời gian gần đây 
ở nơi này hay nơi khác. 
Mạnh dạn bố trí người có tài, có đức vào 
những vị trí xứng đáng, tạo mọi điều kiện 
thuận lợi để họ có thể phát huy hết những 
sáng kiến cá nhân, những thiên hướng 
nghề nghiệp và tạo điều kiện để họ phát 
huy cao năng lực trong hiện tại và khơi dậy 
những tiềm năng của chính họ trong tương 
lai. 
Cần thiết tạo một sân chơi lành mạnh 
sao cho những nhân tố mới được sinh sôi, 
phát triển, những đột phá phải được nuôi 
dưỡng, trân trọng và sử dụng trên cơ sở tôn 
trọng những giá trị cá nhân, chấp nhận sự 
khác biệt về tư duy của mỗi con người. 
Khắc phục có hiệu quả về thói quan 
liêu, mất dân chủ, hẹp hòi, định kiến. Cần 
có thái độ ứng xử theo hướng tôn trọng 
 Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam – 9/2012 
40 
người tài và kiên quyết không chấp nhận 
và sử dụng người kém tài, kém đức ở tất cả 
các cơ quan, công sở, bắt đầu ở các cơ 
quan tổ chức cán bộ. 
Để sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả, 
phải tuân thủ nguyên tắc là giao đúng 
người, đúng việc. Trên cơ sở đó tạo cho 
người được giao việc có lòng đam mê với 
công việc mà mình đang đảm nhiệm, thực 
hiện có hiệu quả với công việc. Bên cạnh 
đó cần thiết phải tạo được môi trường làm 
việc cho họ. Với một môi trường làm việc 
vui vẻ, thân thiện và năng động có khả 
năng kích thích tính sáng tạo, sự đam mê 
và nhiệt tình trong công việc mà họ đảm 
nhiệm. 
Trên thực tế, nguồn nhân lực trong các 
đơn vị cơ sở là rất đa dạng. Vấn đề cơ bản 
của việc sử dụng nguồn nhân lực là phải 
biết “dụng nhân như dụng mộc” để có cách 
nhận biết trong việc thực hiện chính sách 
bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực một 
cách hiệu quả nhất. 
5. Tăng cường thu hút nhân tài 
Cần xác định rõ hơn nữa vai trò của 
khoa học xã hội đối với đất nước, tạo điều 
kiện thu hút được những thanh niên giỏi, 
có tâm huyết vào học ngành này và sử 
dụng họ một cách hiệu quả nhất bằng chính 
sách học bổng và chính sách tuyển dụng. 
Hoàn thiện chính sách tuyển dụng đãi 
ngộ đội ngũ cán bộ có trình độ cao, nâng 
cao đạo đức nghề nghiệp, tác phong làm 
việc. Trên thực tế, ngày nay đội ngũ cán bộ 
trẻ có trình độ cao, được đào tạo bài bản lại 
không muốn làm công tác nghiên cứu, lý 
do chủ yếu là do thu nhập thấp, các điều 
kiện nghiên cứu của các viện nghiên cứu 
còn hạn chế hơn nhiều so với lĩnh vực sản 
xuất, kinh doanh và dịch vụ, đặc biệt thấp 
hơn nhiều so với đồng nghiệp trong khu 
vực và thế giới. Do đó, phải có chính sách 
tiền lương và chính sách đãi ngộ thỏa đáng 
để giữ chân được nguồn chất xám trẻ này. 
Các viện nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện 
hệ thống chính sách đãi ngộ đội ngũ cán bộ 
có trình độ cao, tạo động lực bằng vật chất 
và tinh thần theo hướng đãi ngộ hợp lý đối 
với từng đối tượng. Tạo dựng môi trường 
làm việc văn hóa lành mạnh từ xây dựng 
niềm tin, các chuẩn mực về hành vi ứng xử 
trong nghiên cứu, trong kinh doanh. Đặc 
biệt tạo dựng niềm say mê và khát vọng 
sáng tạo khoa học của đội ngũ cán bộ này. 
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tuyển dụng, 
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng 
viên trẻ, từ những sinh viên tốt nghiệp loại 
giỏi có khả năng nghiên cứu và tiếp tục 
phát triển và thi tuyển vào vị trí giảng viên 
ở các bộ môn. Đồng thời có những chính 
sách tạo điều kiện cho giảng viên yên tâm 
học tập nghiên cứu, nâng cao trình độ như 
vẫn được hưởng nguyên lương và phụ cấp, 
được tài trợ kinh phí học tập, tài liệu bằng 
nguồn ngân sách của Nhà nước và các 
nguồn vốn vay của nước ngoài. 
Cần phải sửa đổi chế độ tiền lương, đưa 
mọi khoản thu nhập thực tế từ công quỹ 
vào lương và điều chỉnh sự phân phối công 
bằng để tiền lương thực tế có thể đảm bảo 
đời sống tối thiểu, tạo điều kiện cho đội 
ngũ cán bộ giảng viên tập trung vào nhiệm 
vụ giảng dạy, nghiên cứu mà không phải lo 
dạy thêm. 
Ngoài ra, cần chú ý đến yếu tố tinh thần 
trong sử dụng nguồn nhân lực, tức phải 
hiểu biết và đặt niềm tin ở người lao động, 
Chính sách phát triển nguồn nhân lực 
41 
phải biến nơi mà họ làm việc như là chỗ 
dựa cả về vật chất và tinh thần, sẵn sàng 
chia sẽ những khó khăn, tạo cho họ yên 
tâm làm việc và công hiến hết mình. Đây 
cũng là điều kiện để tạo ra đủ thế và lực 
khi Việt Nam hội nhập sâu rộng kinh tế 
quốc tế. 
6. Tăng cường nghiên cứu và ứng 
dụng khoa học xã hội vào thực tiễn 
Quan điểm phát triển ngành khoa học xã 
hội và Viện Khoa học xã hội Việt Nam 
phải gắn với phát triển toàn ngành khoa 
học và công nghệ nói chung. Phải coi đầu 
tư cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học 
xã hội vào thực tiễn là đầu tư cho phát 
triển. Cụ thể, Viện Khoa học xã hội Việt 
Nam phải được đầu tư để thực hiện tốt các 
nhiệm vụ nghiên cứu khoa học: 
* Nghiên cứu và dự báo xu hướng phát 
triển chủ yếu của thế giới và khu vực, 
những tác động nhiều mặt của quá trình 
toàn cầu hoá; nghiên cứu về chiến lược và 
chính sách của các nước lớn trong bối cảnh 
toàn cầu hoá và sự tác động đến nước ta; 
định rõ vị thế, bước đi và chính sách chủ 
động hội nhập của Việt Nam vào các thiết 
chế kinh tế toàn cầu và khu vực. Nghiên 
cứu các lý thuyết và kinh nghiệm phát triển 
trên thế giới để tìm ra con đường phát triển 
phù hợp với điều kiện của đất nước, con 
người và xã hội Việt Nam. 
* Nghiên cứu bản chất, đặc điểm, nội 
dung của cuộc cách mạng khoa học - công 
nghệ hiện đại và sự phát triển của kinh tế 
tri thức trong thế kỷ XXI và sự tác động 
của chúng đến tiến trình phát triển kinh tế - 
xã hội Việt Nam. Kết hợp và phát huy sức 
mạnh tổng hợp của Khoa học xã hội và 
khoa học tự nhiên và công nghệ trong điều 
kiện của cuộc cách mạng khoa học, công 
nghệ hiện đại, góp phần thực hiện thành 
công Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá của Việt Nam. 
* Nghiên cứu bản chất, đặc điểm của 
nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội 
chủ nghĩa và việc tạo lập đồng bộ thể chế 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa của Việt Nam; nghiên cứu sự biến 
đổi của cơ cấu xã hội và quản lý sự phát 
triển xã hội ở Việt Nam trong điều kiện 
nền kinh tế thị trường nhằm mục tiêu vừa 
tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo công 
bằng, thực hiện chính sách xã hội, tạo cơ 
hội phát triển cho mỗi thành viên và cho cả 
cộng đồng. 
* Nghiên cứu về đổi mới hệ thống chính 
trị, thực hiện và phát huy dân chủ, củng cố 
và nâng cao vai trò và vị trí cầm quyền của 
Đảng Cộng sản Việt Nam; đổi mới phương 
thức và nâng cao năng lực lãnh đạo của 
Đảng trong điều kiện phát triển nền kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa của dân, do dân, vì dân; xây dựng và 
hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành 
lang pháp lý thuận lợi cho việc tạo lập và 
phát triển đồng bộ thể chế kinh tế thị 
trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc 
tế của Việt Nam. 
* Đặc biệt, đầu tư cho nghiên cứu những 
vấn đề cơ bản và cấp bách về xã hội, dân 
tộc, tôn giáo, lịch sử, văn hoá , nhằm đề 
xuất giải pháp cho việc bảo vệ và phát huy 
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, 
làm thất bại âm mưu diễn biến hoà bình, 
bảo đảm ổn định xã hội và an ninh chính 
 Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam – 9/2012 
42 
trị, tạo điều kiện phát triển toàn diện và bền 
vững cho mỗi dân tộc trong đại gia đình 
các dân tộc Việt Nam trên nguyên tắc bình 
đẳng và tôn trọng sự đa dạng văn hoá của 
các dân tộc. 
* Nghiên cứu cơ bản về phát triển toàn 
diện con người Việt Nam mang đậm tính 
nhân văn và các giá trị văn hoá tốt đẹp của 
dân tộc, tiếp thu tinh hoa của văn hoá - văn 
minh nhân loại, đáp ứng yêu cầu ngày càng 
cao của công cuộc công nghiệp hoá, hiện 
đại hoá đất nước. 
* Tiến hành điều tra cơ bản, tổng hợp 
liên nghành về khoa học xã hội; chú trọng 
những lĩnh vực kinh tế - xã hội chủ yếu, 
những ngành, vùng kinh tế trọng điểm của 
đất nước nhằm tổng kết thực tiễn, làm cơ 
sở cho công tác nghiên cứu lý luận; phát 
hiện những tiềm năng, nguồn lực và mô 
hình mới nảy sinh trong thực tiễn phục vụ 
cho Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 
của cả nước và các ngành, vùng trọng 
điểm. 
* Nghiên cứu cơ bản, toàn diện, có hệ 
thống những vấn đề lý thuyết của khoa học 
xã hội và tư duy phát triển của Việt Nam 
dưới tác động của toàn cầu hoá và chủ 
động hội nhập kinh tế quốc tế phục vụ cho 
sự phát triển của đất nước và nền khoa học 
xã hội nước nhà. 
* Nghiên cứu, biên soạn những bộ sách 
lớn tiêu biểu cho tinh hoa của trí tuệ Việt 
Nam và thế giới phục vụ công tác nghiên 
cứu, giảng dạy và truyền bá tri thức về 
khoa học xã hội. Hoàn thành việc biên 
soạn và công bố những công trình khoa 
học trọng điểm cấp Nhà nước: Lịch sử Việt 
Nam (thông sử); Lịch sử văn hoá Việt 
Nam; Lịch sử văn học Việt Nam; từ điển 
tiếng Việt (cỡ lớn); địa chí các tỉnh và 
thành phố trong cả nước; khai thác di sản 
Hán Nôm; kho tàng văn hoá dân gian Việt 
Nam. 
7. Quan tâm, tạo động lực về vật chất 
và tinh thần đối với nguồn nhân lực 
ngành khoa học xã hội Việt Nam 
Cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo 
động lực thực sự để cán bộ, công chức, 
viên chức thực thi công vụ có chất lượng 
và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch 
vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công 
là những vấn đề trọng tâm của cải cách 
hành chính trong giai đoạn 10 năm 2010 – 
2020. 
Để khai thác hiệu quả nguồn nhân lực 
và động viên người lao động toàn tâm, toàn 
ý làm việc vì sự nghiệp khoa học xã hội, 
cần xây dựng và ban hành chính sách, chế 
độ ưu đãi thích đáng, phải đảm bảo hai 
mục tiêu sau: 
Bảo đảm cho nhân lực ngành khoa học 
xã hội suốt đời yên tâm công tác, củng cố 
lòng yêu nghề, sẵn sàng truyền thụ những 
kinh nghiệm cho đồng nghiệp một cách 
nhiệt tình, vô tư vì mục tiêu chung của 
ngành khoa học xã hội Việt Nam. Muốn 
thực hiện được mục tiêu này cần thực hiện 
chính sách cấp học bổng toàn phần, bán 
phần cho những người có nhu cầu học tập. 
Khuyến khích người lao động không 
ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên 
môn, kỹ năng làm việc và hội nhập quốc 
tế. Hỗ trợ kinh phí để người lao động tham 
gia các khóa học, khen thưởng bằng tiền, 
kỳ nghỉ cho những người đạt thành tích 
cao trong học tập, nâng cao trình độ hoặc 
có thêm bằng cấp mới, hoặc đạt những 
thành tích xuất sắc trong công tác quản lý, 
giảng dạy hoặc có những nghiên cứu mới 
của ngành khoa học xã hội. 
Chính sách phát triển nguồn nhân lực 
43 
Phải có chính sách đãi ngộ vật chất và 
tinh thần thỏa đáng và phù hợp cho người 
tài, có chính sách khen thưởng động viên, 
đề bạt kịp thời qua các phong trào thi đua 
cũng như có biện pháp xử phạt nghiêm 
minh, gắn kết giữa chính sách nhân sự với 
chiến lược sử dụng và đào tạo, bồi dưỡng 
nhân tài. 
Chính sách ưu đãi bao gồm các chế độ 
chủ yếu là: 
Một là, đảm bảo việc thanh toán chế độ 
tiền lương, phụ cấp, thanh toán chế độ bảo 
hiểm xã hội cho cán bộ, viên chức theo 
đúng quy định của Nhà nước một cách kịp 
thời. 
Hai là, thực hiện chế độ kéo dài tuổi 
nghỉ hưu đối với những nguồn nhân lực 
cao cấp (PGS.TS, GS.TS) nhằm tận dụng 
tối đa nguồn lực và để thế hệ trẻ có cơ hội, 
điều kiện tiếp cận học hỏi thế hệ lão thành, 
giàu kinh nghiệm. 
Ba là, hỗ trợ vật chất và tinh thần cho 
cán bộ, công chức, viên chức học tập nâng 
cao trình độ. 
Bốn là, hàng năm thường xuyên quan 
tâm đến đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn nhằm 
nâng cao trình độ chuyên môn và tiêu 
chuẩn ngạch bậc của cán bộ, công chức, 
viên chức. 
Năm là, gắn bó cán bộ, công chức, viên 
chức với ngành, cơ quan, đơn vị để họ yên 
tâm nghiên cứu, cống hiến cho sự nghiệp 
khoa học thông qua các hoạt động văn hóa 
thể thao, tham quan du lịch tập thể. 
__________________ 
Tài liệu tham khảo 
1. Bộ Khoa học và Công nghệ, 1996. KX-07, đề tài 
VX - 07-014, Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ 
nhân lực trong điều kiện mới, Hà Nội. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 1999. Chiến lược phát 
triển giáo dục - đào tạo năm 2020, 
Hà Nội. 
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2008. Chiến lược phát 
triển giáo dục Việt Nam 2009 – 2010. 
4. Beng, Fischer & Dornhusch (1995). 
5. Đỗ Minh Cương – Nguyễn Thị Loan, 2001. 
Phát triển nguồn nhân lực giáo dục Đại học Việt 
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
6. Chính sách phát triển nguồn nhân lực của các nước 
ASEAN, 1999. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á. 
7. Chính phủ (2003), Nghị định số 116/2003/NĐ-
CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về việc tuyển 
dụng, sử lý và quản lý cán bộ, công chức trong các 
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. 
8. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2007. Đề án 
chương trình cải cách hành chính của Viện Khoa 
học xã hội Việt Nam giai đoạn 2007-2010. 
9. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2009. Dự án 
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Viện 
Khoa học xã hội Việt Nam. 
10. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2010. Kỷ yếu 
Hội thảo nâng cao chất lượng và hiệu quả về công 
tác đào tạo cán bộ của Viện Khoa học xã hội Việt 
Nam giai đoạn 2010 – 2020, Nxb. Khoa học xã 
hội, Hà Nội. 
11. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2010. Quy 
hoạch phát triển nhân lực của Viện Khoa học xã 
hội Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Hà Nội. 
12. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2010. Báo 
cáo tổng kết công tác năm 2010 và phương hướng, 
nhiệm vụ công tác năm 2011, Hà Nội. 
13. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2011. Báo 
cáo tổng kết công tác năm 2011 và phương hướng, 
nhiệm vụ công tác năm 2012, Hà Nội. 
14. Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, 2001. Chiến 
lược phát triển giáo dục trong thế kỷ 21, kinh nghiệm 
của các quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia. 
15. Viện phát triển chiến lược, 1997. Chính sách 
phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn mới đến 
năm 2020, Nxb. Thống kê, Hà Nội. 
 Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam – 9/2012 
44 

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_phat_trien_nguon_nhan_luc_nganh_khoa_hoc_xa_hoi_v.pdf