Đảm bảo công bằng xã hội từ góc nhìn nhóm lợi ích

Ngược dòng lịch sử, khái niệm “công

bằng” xuất hiện từ rất sớm và gắn liền với

tên tuổi của nhà triết học vĩ đại Aristotle

(sinh năm 384 TCN). Tuy nhiên, theo một

số nhà khoa học trên thế giới, khái niệm

“công bằng xã hội” (Social Justice) xuất

hiện lần đầu tiên vào năm 1840 trong công

trình nghiên cứu Luận thuyết pháp luật của

nhà triết học L.T D'Adzelo1. Sau đó, khái

niệm này được nhà triết học Dzh.St.Millem2

bàn sâu hơn trong cuốn Chủ nghĩa duy lợi3

(xuất bản năm 1900). Hiện nay, “công

bằng xã hội” trở thành vấn đề nóng bỏng,

là trọng tâm hoạch định, thực hiện chính

sách của nhiều quốc gia trên toàn cầu và

được các nhà nghiên cứu đương đại như

Dzh.Rouls, FA Hayek, R. Nozick, R.

Dahrendorf, J. Habermas, Richard Rorty,

Dzh.Gelbreyt, B. Barry, Walter Lippmann,

W. Galston, G. Hart tiếp tục luận thuyết.

pdf 7 trang yennguyen 5940
Bạn đang xem tài liệu "Đảm bảo công bằng xã hội từ góc nhìn nhóm lợi ích", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đảm bảo công bằng xã hội từ góc nhìn nhóm lợi ích

Đảm bảo công bằng xã hội từ góc nhìn nhóm lợi ích
ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG XÃ HỘI 
TỪ GÓC NHÌN NHÓM LỢI ÍCH 
NGUYỄN THỊ MAI HOA* 
1. Công bằng xã hội - thước đo nhân 
văn của xã hội * 
Ngược dòng lịch sử, khái niệm “công 
bằng” xuất hiện từ rất sớm và gắn liền với 
tên tuổi của nhà triết học vĩ đại Aristotle 
(sinh năm 384 TCN). Tuy nhiên, theo một 
số nhà khoa học trên thế giới, khái niệm 
“công bằng xã hội” (Social Justice) xuất 
hiện lần đầu tiên vào năm 1840 trong công 
trình nghiên cứu Luận thuyết pháp luật của 
nhà triết học L.T D'Adzelo1. Sau đó, khái 
niệm này được nhà triết học Dzh.St.Millem2 
bàn sâu hơn trong cuốn Chủ nghĩa duy lợi3 
(xuất bản năm 1900). Hiện nay, “công 
bằng xã hội” trở thành vấn đề nóng bỏng, 
là trọng tâm hoạch định, thực hiện chính 
sách của nhiều quốc gia trên toàn cầu và 
được các nhà nghiên cứu đương đại như 
Dzh.Rouls, FA Hayek, R. Nozick, R. 
Dahrendorf, J. Habermas, Richard Rorty, 
Dzh.Gelbreyt, B. Barry, Walter Lippmann, 
W. Galston, G. Hart tiếp tục luận thuyết. 
Các nhà nghiên cứu thuộc nhiều trường 
phái khác nhau đã đưa ra ba mô thức công 
bằng xã hội: 1- Công bằng hiệu chỉnh; 2- 
Công bằng phân phối; 3- Công bằng giao 
hoán. Ba mô thức này được hiểu như sau: 
1- Công bằng hiệu chỉnh biểu thị bằng 
* Tiến sỹ, Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng 
viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
tương quan giữa sai phạm (tội lỗi) với hình 
phạt (trừng phạt); 2- Sự phân phối công 
bằng là nền tảng đạo lý cốt lõi nhất của 
mọi mối quan hệ xã hội; 3- Công bằng là 
sự tự do giao hoán trên cơ sở tự nguyện và 
cùng có lợi. 
Ủng hộ mô thức thứ nhất, nhà chính trị 
học Mỹ N. Fraser cho rằng, “công bằng 
không đồng nhất với cào bằng mà là sự 
thừa nhận các giá trị cá nhân đặt trong 
tương quan với hệ quy chuẩn mang tính 
khách quan”4. 
Đại diện tiêu biểu cho mô thức thứ hai 
là nhà triết học Mỹ J. Rawls với quan 
điểm: “Công bằng xã hội đạt được thông 
qua việc điều hòa lợi ích xã hội trên cơ sở 
sự phân bố các quyền và nghĩa vụ; chi phí 
và lợi nhuận trong hợp tác xã hội”5. 
Thuộc trường phái - mô thức thứ ba, nhà 
xã hội học Mỹ T. Parsons khẳng định: 
“Công bằng xã hội là sự bình đẳng về cơ 
hội cạnh tranh cho tất cả mọi người”6. 
Công bằng xã hội là một phạm trù có 
tính lịch sử, được tiếp cận dưới rất nhiều 
góc độ khác nhau: 1- Từ góc độ đạo đức, 
pháp lý (tương ứng giữa giá trị cá nhân và 
chuẩn mực xã hội); 2- Từ góc độ kinh tế 
(sự tương xứng giữa lao động và thu nhập, 
giữa cống hiến và hưởng thụ); 3- Từ góc 
độ chính trị, xã hội (bình đẳng đối với các 
cơ hội và điều kiện thực hiện cơ hội). 
Đảm bảo công bằng xã hội 
59
Là một phạm trù có tính lịch sử, công 
bằng xã hội không phải là một khái niệm 
bất di, bất dịch; nó mang tính tương đối, bị 
quy định bởi hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thay 
đổi theo điều kiện thực tiễn của từng xã 
hội, từng thời kỳ; phụ thuộc vào sự nhận 
thức và vận dụng của các chủ thể lịch sử. 
Nếu đem tách rời công bằng xã hội khỏi 
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thì công bằng xã 
hội ấy sẽ trở thành trừu tượng, khiên cưỡng, 
cứng nhắc, thiếu sức sống. 
Được tiếp cận dưới các góc độ khác 
nhau, quan điểm về công bằng xã hội khá 
đa diện, nhưng hợp điểm của toàn bộ các 
cách tiếp cận, các quan điểm về công bằng 
xã hội không gì khác là đề cao giá trị con 
người, coi giá trị con người là giá trị 
hàng đầu của mọi giá trị thông qua việc 
giải phóng, phát triển con người và tạo ra 
những điều kiện mang tính người, để con 
người bình đẳng tồn tại, sáng tạo và phát 
triển. Chỉ số cao nhất của công bằng xã 
hội là “tự do và hạnh phúc”. Đó cũng 
chính là mục đích tự thân, mang tính 
nhân văn, hướng tới loại trừ cái phi nhân; 
thể hiện khát vọng thẳm sâu, cháy bỏng, lý 
tưởng cao đẹp của con người và của cả loài 
người từ thủa khai thiên, lập địa cho tới tận 
ngày hôm nay. Cũng vì nó, hàng triệu triệu 
con người đã không ngơi nghỉ, không mệt 
mỏi phấn đấu và tranh đấu. Công bằng xã 
hội vừa là điều kiện sơ khởi, quan trọng, 
cần thiết; vừa là điều kiện cốt lõi cuối cùng 
để xây dựng một xã hội nhân văn. 
2. Nhóm lợi ích và công bằng xã hội 
Thực hiện công bằng xã hội phụ thuộc 
vào rất nhiều yếu tố và điều kiện khác 
nhau, song nó đặc biệt phụ thuộc vào trình 
độ nhận thức, sự chi phối lợi ích của các 
giai cấp, các nhóm xã hội. 
Lợi ích từ lâu đã được thừa nhận là động 
lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội; sự 
công bằng lợi ích là một trong những thước 
đo của công bằng xã hội. Trong xã hội có 
giai cấp, tất yếu xuất hiện mâu thuẫn lợi 
ích và cách thức giải quyết mâu thuẫn lợi 
ích có thể biến lợi ích thành động lực hoặc 
phản động lực đối với xã hội và công bằng 
xã hội. Hiện nay, khi phân loại lợi ích, phổ 
biến cách phân chia theo ba tầng nấc: Lợi 
ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích tổng thể, 
trong đó: 1- Lợi ích cá nhân bao gồm lợi 
ích vật chất và lợi ích tinh thần của mỗi cá 
nhân; 2- Lợi ích nhóm là lợi ích của một 
nhóm người, có mối liên kết hoạt động, có 
mục tiêu tương đối chung, có ý thức liên 
kết để đạt được mục tiêu ấy7; 3- Lợi ích 
tổng thể là lợi ích chung của toàn xã hội, 
của quốc gia, vùng, hoặc toàn cầu. Nằm ở 
tầng nấc thứ hai, lợi ích nhóm giữ vai trò 
chủ đạo, có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích 
cá nhân và lợi ích tổng thể. Như vậy, nền 
tảng - dựa trên đó hình thành cấu trúc, cơ 
chế hoạt động của xã hội chính là lợi ích. 
Từ lợi ích nhóm, hình thành nên những 
nhóm lợi ích (Interest Group). Xã hội là 
một hệ thống lợi ích phức tạp cùng với sự 
tương tác lợi ích trong từng nhóm, hoặc 
giữa các nhóm khác nhau trong trạng thái 
cạnh tranh, đấu tranh liên tục để nắm giữ 
bằng được quyền sở hữu, phân phối nguồn 
lực công và quyền được tham gia vào quá 
trình định hình, thông qua, xác lập các 
quyết định thuộc về quyền lực nhà nước 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2013 
60
(chính sách), với mục đích có được lợi thế, 
ưu thế, lợi ích vượt trội. Theo A. Bentley, 
“không hình thành, tồn tại các nhóm đứng 
ngoài lợi ích. Xã hội - Đó là một tổng hợp 
của các nhóm lợi ích khác nhau, số lượng 
của chúng bị quy định và giới hạn bởi một 
chỉ số duy nhất: Lợi ích - cái mà từ đó 
chúng liên kết, hình thành và hoạt động”8. 
Nhóm lợi ích còn được coi là một loại hình 
tập hợp người đặc biệt - “nhóm gây áp 
lực”, hình thành, tồn tại trên cơ sở lợi ích 
chung - vì nó mà nhóm - tập hợp người tìm 
mọi phương thức, con đường tác động tới 
chính sách công, hòng đảm bảo và mang 
lại lợi ích cho nhóm nhiều nhất. 
Đặc điểm chính để nhận diện nhóm lợi 
ích chính là mức độ của lợi ích nhóm. Mức 
độ lợi ích ấy có thể cao hơn hoặc thấp hơn 
so với mặt bằng xã hội trong từng giai 
đoạn, hoặc trong những thời điểm nhất 
định. Điều quan trọng là ở chỗ mức độ lợi 
ích của nhóm đóng vai trò chỉ số tổng hợp, 
cơ bản, quan trọng, phản ánh vị thế và khả 
năng tác động của nhóm đến chính sách 
Nhà nước. Cũng cần lưu ý thêm rằng, 
không chỉ những nhóm có ưu thế trong xã 
hội mới có khả năng tác động đến quá trình 
hoạch định chính sách của Nhà nước, mà 
những nhóm có vị thế yếu, hoặc nhóm chịu 
nhiều tổn thất cũng có thể có những tác 
động nhất định đến nội dung chính sách. 
Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào tính minh 
bạch của nền chính trị. 
Sự tồn tại của các nhóm lợi ích và đồng 
hành cùng với chúng là cạnh tranh lợi ích 
giữa các nhóm trong xã hội là một hiện 
thực khách quan không thể chối bỏ. Nhóm 
lợi ích không đồng nghĩa với tiêu cực như 
người ta vẫn thường hình dung. Nhóm lợi 
ích có tính hai mặt. Dưới góc độ công bằng 
xã hội, một mặt, sự cạnh tranh lành mạnh 
giữa các nhóm lợi ích tác động tích cực tới 
đảm bảo công bằng xã hội, tạo các động 
lực cơ bản thúc đẩy phát triển xã hội; mặt 
khác, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa 
các nhóm lợi ích, nhất là trong các nền 
chính trị không minh bạch, thông qua hình 
thức vận động hành lang (Lobby), nhằm 
tác động tới cách thức, tỷ lệ phân bổ lợi ích 
của Nhà nước, để tạo dựng và thụ hưởng 
đặc quyền, đặc lợi là nguy cơ trực tiếp đối 
với công bằng xã hội, hủy hoại tiến bộ xã 
hội. Luận giải trên đây cho thấy, tiếp cận 
vấn đề công bằng xã hội không thể tách rời 
sự tiếp cận chính trị và quyền lực chính trị; 
theo đó, tiếp cận chính trị không thể chỉ 
giới hạn ở các hình thức pháp luật, hoạt 
động của các tổ chức chính trị, các đảng 
phái chính trị, mà cần tiếp cận từ yếu tố 
sâu xa, cội rễ nhất - lợi ích, hoạt động của 
con người tự nguyện liên kết trong các 
nhóm có cùng mục đích chính trị, thông 
qua thực hiện mục đích chính trị để đạt tới, 
đảm bảo lợi ích cao nhất. 
Chính vì thế, vấn đề quan trọng nhất, 
song cũng khó khăn, phức tạp nhất của vận 
hành, quản trị xã hội để đáp ứng, bảo đảm 
công bằng xã hội là thực hiện phối - kết 
hợp lợi ích của các nhóm cụ thể với lợi ích 
của xã hội như một toàn thể. Kết quả của 
thao tác chính trị đó quy định sự ổn định 
xã hội, của toàn bộ hệ thống chính trị, tính 
hợp pháp, hiệu quả của Chính phủ, sự năng 
động của phong trào xã hội và uy tín của 
Đảm bảo công bằng xã hội 
61
đảng cầm quyền. Do vậy, công bằng xã hội 
tuy bị ràng buộc, chế định, chi phối bởi 
điều kiện kinh tế - văn hóa, chuẩn mực 
pháp luật và đạo đức, song yếu tố chi phối 
quyết định nhất, căn bản nhất, trực tiếp 
nhất là hệ thống chính trị; trong đó, vấn đề 
sâu xa, cội rễ nhất là vấn đề quyền lực 
chính trị, quyền lực nhà nước. Quyền lực 
chính trị thiếu kiểm soát, hoặc kiểm soát 
không chặt chẽ là bà đỡ của những nhóm 
lợi ích bất minh. 
3. Đảm bảo công bằng xã hội, nhóm 
lợi ích và vấn đề kiểm soát quyền lực 
chính trị 
Công bằng xã hội là nền tảng của một 
xã hội tốt9. Không thể xây dựng một xã hội 
lý tưởng, viên mãn nếu thiếu vắng công 
bằng xã hội với những giá trị nhân bản của 
nó. Trong xã hội với sự tồn tại, đấu tranh 
của các nhóm lợi ích khác nhau, để thúc 
đẩy xã hội phát triển bền vững trên nền 
tảng công bằng xã hội, vấn đề chất lượng 
thể chế chính trị thể hiện qua khả năng, mức 
độ kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực 
nhà nước có ý nghĩa sống còn. 
 Nếu “thể chế chính trị là tổng hợp các 
phương pháp và cách thức thực hiện quyền 
lực nhà nước do tình hình chính trị trong 
nước chi phối”10, thì “điểm cốt yếu nhất, 
quyết định nhất đến thể chế chính trị là bản 
chất, hình thức, tính chất của quyền lực nhà 
nước, chính trị hiện hành”11; do đó, để “bản 
chất, hình thức, tính chất của quyền lực nhà 
nước” thực sự thuộc về số đông, đảm bảo 
lợi ích cho số đông, đảm bảo công bằng xã 
hội cho tất cả mọi người, vấn đề kiểm soát 
quyền lực nhà nước được đặt ra từ rất sớm 
và luôn luôn tồn tại một khi còn tồn tại Nhà 
nước. Ở nhiều quốc gia, kể cả các quốc gia 
có thể chế chính trị tương đối hoàn thiện, 
việc tiếp tục xây dựng, hiện đại hóa cơ chế 
kiểm soát quyền lực nhà nước - tạo lập một 
cơ chế có khả năng khuyến khích tối đa 
ảnh hưởng tích cực của nhóm lợi ích (phân 
bổ công bằng lợi ích nhóm), cũng như 
giảm thiểu cao nhất ảnh hưởng tiêu cực của 
nhóm lợi ích (phân bổ lợi ích bất công giữa 
các nhóm, kìm chế tiềm năng, tước đoạt 
điều kiện phát triển) vẫn luôn được chú 
trọng. Bàn về vấn đề này, nhà xã hội học 
người Mỹ Frank Scarpatti cho rằng, “mục 
tiêu của công bằng xã hội chỉ có thể thực 
hiện thông qua một chính sách làm giảm sự 
tập trung quyền lực và những nguồn tài 
nguyên kinh tế trong tay một tầng lớp nhỏ 
đặc quyền của xã hội”12. Như vậy, một thể 
chế chính trị có hệ thống pháp luật hoàn 
thiện, tạo thế đối trọng giữa các nhóm lợi 
ích; “chủ động phát triển cơ chế đề kháng 
thông qua các quá trình tự cải tổ, đổi mới 
liên tục, thường xuyên, lâu dài, không 
ngừng trệ”13; đồng thời, đề cao minh bạch, 
hóa giải nhóm lợi ích, đạt tới cách thức 
phân bổ lợi ích thỏa đáng, làm cho lợi ích 
phát huy giá trị động lực, kích thích tối đa 
khả năng đóng góp, hạn chế tối đa khả 
năng gây hại của các nhóm lợi ích cho xã 
hội là yêu cầu cần đạt tới của một thể chế 
chính trị tiến bộ, văn minh, trong đó, cơ 
chế kiểm soát quyền lực nhà nước phải 
luôn tịnh tiến đến sự hoàn bị. 
Ở Việt Nam hiện nay, cơ chế vận hành 
xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật chưa 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2013 
62
hoàn thiện, phương thức kiểm soát quyền 
lực nhà nước còn nhiều hạn chế, thiếu hiệu 
quả, ở nhiều nơi, nhiều lúc, hiện tượng lạm 
quyền, thiếu trật tự kỷ cương, mất dân 
chủ khá phổ biến. Chính điều đó đã, 
đang, sẽ sản sinh ra một số nhóm lợi ích 
theo nghĩa nhóm đặc quyền, đặc lợi - nhóm 
lợi ích nhỏ về số lượng người trong tập 
hợp nhóm, song có lợi ích lớn, bất minh và 
có khả năng ảnh hưởng hoặc tác động 
mạnh mẽ, hoặc trực tiếp tham gia vào quá 
trình ra quyết sách của chính quyền, Nhà 
nước. Những nhóm lợi ích đặc quyền, đặc 
lợi ấy- những “thế lực” lớn, liên kết những 
cá nhân đơn lẻ, nhưng lại có điều kiện, khả 
năng kết nối chính trị với kinh tế, sử dụng 
chính trị để trục lợi kinh tế càng có điều 
kiện gia tăng, trở thành hiện tượng nhức 
nhối của xã hội khi thiếu cơ chế, phương 
thức kiểm soát, giám sát quyền lực nhà 
nước. Lợi ích thu được từ chính sách và 
ảnh hưởng chính sách vô cùng to lớn. Nó 
lớn hơn bất cứ thứ lợi nhuận nào có được 
từ sản xuất, hoặc kinh doanh trực tiếp. Do 
vậy, những nhóm đặc quyền, đặc lợi luôn 
mưu cầu tác động tới quá trình hoạch định 
chính sách của các cấp quản lý, của Nhà 
nước. Đây là hiện tượng “tham nhũng 
chính sách” - một loại hình tham nhũng 
không còn mấy mới mẻ ở Việt Nam, ngày 
càng trở nên tinh vi, phức tạp, diễn ra trên 
phạm vi rộng. Lợi ích và cách thức chiếm 
đoạt lợi ích, bảo vệ lợi ích của nhóm đặc 
quyền, đặc lợi đẩy họ đứng đối lập với đa 
số tập hợp người khác trong xã hội, đối lập 
với nhân dân. Nhóm lợi ích này là nguồn 
gốc của bất công, bất bình đẳng, bất công 
bằng xã hội, là vật cản sự phát triển một xã 
hội lành mạnh, là nguy cơ trực tiếp đối với 
tồn vong chế độ. Sự hình thành, tồn tại 
những nhóm lợi ích đặc quyền, đặc lợi, một 
mặt, có nguyên nhân và phản ánh sự tha 
hóa, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo 
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ 
cán bộ thuộc về bộ máy quyền lực nhà 
nước; mặt khác, cho thấy cơ chế kiểm soát 
quyền lực nhà nước, đặc biệt tình trạng 
pháp quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) 
của hệ thống chính trị Việt Nam vẫn tồn tại 
không ít “kẽ hở”, “lỗ hổng”, chưa đóng vai 
trò thực sự điều chỉnh hành vi, nhận thức 
của xã hội, cá nhân và tổ chức, chưa làm 
tròn vai trò phản tỉnh đối với xã hội. Như 
vậy, trong rất nhiều điểm “nghẽn” chi phối 
quá trình, hiệu quả đảm bảo công bằng xã 
hội, triệt tiêu những “nhóm lợi ích ngược”, 
vấn đề chất lượng đội ngũ cán bộ công 
quyền và phương thức, cơ chế kiểm soát 
quyền lực nhà nước được coi là những nội 
dung chủ chốt, trọng yếu, cần giải quyết 
trước hết, đầu tiên. Đây là vấn đề khó, đòi 
hỏi thời gian, nhận thức, nỗ lực của nhiều 
lực lượng xã hội; đồng thời, cũng sẽ vấp 
phải sự chống đối, cản trở của không ít lực 
lượng xã hội. Để bước đầu giải quyết vấn 
đề nêu trên, cần hết sức lưu ý, tập trung 
vào những giải pháp chủ yếu: 
Thứ nhất, đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội. 
 Lý tưởng của nhân loại tiến bộ là xây 
dựng xã hội dân chủ. Dân chủ là bản chất 
của công bằng xã hội, là tuyên bố chính 
thức về quyền tự do, bình đẳng của con 
người. Dân chủ là môi trường nuôi dưỡng, 
nuôi sống năng lực, sức mạnh sáng tạo; sản 
Đảm bảo công bằng xã hội 
63
sinh, bồi đắp nguyện vọng cống hiến cho 
xã hội của con người, trên cơ sở tôn vinh 
tính chủ động và khả năng làm chủ. Đó là 
giá trị nhân bản, mang tính người cao nhất, 
vì thế, là giá trị xã hội trường tồn. Lịch sử 
loài người biến đổi đầy thăng trầm, liên tục 
hoặc đứt đoạn, nhưng mãi mãi, giá trị của 
dân chủ có tính phổ quát, được tôn vinh, 
vượt thời gian. 
Phản ánh mối quan hệ quyền lực - lợi 
ích của các chủ thể trong xã hội, với tư 
cách vừa là biểu hiện cao nhất của công 
bằng xã hội, vừa là điều kiện để đảm bảo 
công bằng xã hội, dân chủ đối lập với tha 
hóa quyền lực nhà nước, đối lập với những 
nhóm lợi ích đen tối. Dân chủ chỉ được 
thực hiện thông qua thể chế, thiết chế và cơ 
chế chính trị hợp lý, tiến bộ, văn minh, kỷ 
cương, pháp luật - một thiết chế, cơ chế 
thúc đẩy, đảm bảo sự tham gia của nhân 
dân trong kiểm soát quyền lực của nhà 
nước - một thiết chế dân chủ hoàn bị. 
Thứ hai, đấu tranh chống chủ nghĩa cá 
nhân trong đội ngũ cán bộ công quyền. 
Chạy theo địa vị, hám danh lợi, chạy 
theo chức quyền, biến quyền lực nhà nước- 
quyền lực do nhân dân ủy quyền, giao 
quyền thành công cụ, phương tiện phục vụ 
mục đích cá nhân; trọng vật chất, ham 
muốn bổng lộc, tìm mọi cơ hội để trục lợi 
vật chất, nhất là những cơ hội có được do 
nắm quyền lực nhà nước trong tay - đó 
chính là chủ nghĩa cá nhân... Chủ nghĩa cá 
nhân cực kỳ nguy hiểm, là thứ "ung nhọt", 
là "kẻ thù bên trong" tệ hại nhất, là thứ vi 
trùng độc hại len lỏi vào cơ thể xã hội, giết 
chết mọi mầm mống của công bằng xã hội. 
Bài trừ chủ nghĩa cá nhân phải được tiến 
hành thường xuyên, thực chất, trên cơ sở 
liên tục lành mạnh hóa bộ máy công 
quyền-phân công quyền lực nhà nước hợp 
lý, khoa học giữa các hoạt động lập pháp, 
hành pháp và tư pháp, làm cho quyền lực 
của pháp luật trở thành quyền lực tối 
thượng, bất phân thân sơ, bất phân địa vị, 
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 
Chỉ có như vậy, mới hạn chế, đi đến bài trừ 
chủ nghĩa cá nhân, bài trừ nguyên nhân căn 
bản sản sinh ra nhóm lợi ích như một đối 
nghịch với công bằng xã hội. 
Thứ ba, trung thực và minh bạch hóa 
thông tin. 
Thông tin trong xã hội hiện đại được ví 
như quyền lực, có sức mạnh vô hình và vô 
cùng to lớn, giá trị hơn tiền của, vật chất. 
Do vậy, một trong những yếu tố gây nên 
bất bình đẳng xã hội, tạo điều kiện để nảy 
sinh, phát triển các “nhóm lợi ích ngược” 
là vấn đề thông tin và tiếp cận thông tin. 
Dân chủ cho phép mọi công dân có quyền, 
cơ hội và bình đẳng tiếp cận thông tin. Tuy 
nhiên, có cơ hội tiếp cận thông tin thôi 
chưa đủ, điều quan trọng là thông tin phải 
được minh bạch hóa, được truyền tải trung 
thực, đầy đủ - nếu thiếu những yếu tố kể 
trên, không có gì đảm bảo rằng, mối quan 
hệ bất đối xứng giữa các chủ thể trong xã 
hội sẽ không bị hạn chế, nhận thức của 
người dân không bị bóp méo. Thiếu minh 
bạch thông tin là một hình thức gây “mù 
chính trị”, “gây nhiễu” chính trị, bịt mắt 
nhân dân, hạn chế giác ngộ chính trị, hạn 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2013 
64
chế quyền làm chủ, hạn chế thực hiện dân 
chủ trực tiếp của người dân, tạo cơ hội, kẽ 
hở cho tầng lớp đặc quyền đặc lợi tồn tại, 
lộng hành, trục lợi bất chính, làm gia tăng 
các nhóm lợi ích có hại cho xã hội. Thông 
tin minh bạch, sát thực, khách quan định 
hướng, tạo dư luận xã hội, gây áp lực cho 
các thế lực bất chính, góp phần tiêu trừ cái 
phi lý. Vì thế, thông tin trung thực, minh 
bạch hết sức cần thiết đối với công bằng xã 
hội trong một xã hội mở, trong một thế 
giới mở phổ biến hiện nay. 
Một cách tổng quát, công bằng xã hội là 
ước mơ, là lý tưởng luôn tồn tại và đồng 
hành cùng với con người. Đó là thước đo 
của tiến bộ xã hội, của văn minh nhân loại. 
Thực hiện, đảm bảo công bằng xã hội là 
nghĩa vụ và bản chất của một Nhà nước 
thân dân, gần dân, gắn bó với dân, yêu dân, 
trọng dân. Tinh thần ấy, thiết nghĩ, phải 
được thấu triệt và biến thành hành động cụ 
thể trong nhận thức, trong từng bước đi, 
trong từng bước phát triển và trong suốt 
quá trình phát triển ở Việt Nam hiện nay. 
Chỉ có như vậy, Việt Nam mới tránh được 
nguy cơ tụt hậu, không đánh mất cơ hội 
phát triển, mới có thể đứng ngang hàng với 
các quốc gia thế giới, khu vực, mới có thể 
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. 
Chú thích 
1. Ирина Гаврилова, “Современные теории 
социальной справедливости”, Журнал “Полития”, 
№ 1, 2009, c. 34. (Tiếng Việt: Irina Garilova “Lý 
thuyết hiện đại về công bằng xã hội”, Tạp chí 
“Chính thể”, số 1-2009, tr. 34) 
2. Nhà triết học, kinh tế học người Anh (1806-1873) 
3. Ирина Гаврилова, “Современные теории 
социальной справедливости”, Sđd, c. 34. 
4. Fraser N: Justice Interrupts, Cambridge, 1997, p. 99. 
5. Шамилева Р. К: “Проблема справедливости в 
социальной теории Дж. Роулса”, Журнал 
Философия и общество, Выпуск №2 (50), 2008, 
c. 42. (Tiếng Việt: Shamileva R. K, “Vấn đề công 
bằng trong lý thuyết công bằng xã hội của J. Rawls, 
Tạp chí Triết học và xã hội, số 2-2008, tr. 42). 
6. Парсонс.Т: Системы современных обществ, 
изд Новосибирск, 1998, c. 78 (Tiếng Việt: 
Parsons. T, “Hệ thống những xã hội hiện đại”, 
Nxb. Novosibirsk, 1998, tr.78) 
7. Allan J. Cigler and Burdett A. Loomis: Interest Group 
Politics, Congressional Quarterly Press, 1995, p. 89. 
8. А. Бентли: Процесс управления, Изд. “Автор”, 
Москва, 1996, c. 144 (Tiếng Việt: A.Bentlin, Quá 
trình quản lý, Nxb Aftor, M, 1996, tr. 144). 
9. Dẫn theo Tổng giám đốc của Tổ chức Nhân lực 
quốc tế Juan Somavia. 
10.  
11.  
12. Frank Scarpatti: Social Problems, Dreyden 
Press USA, 1977, p. 632. 
13. Rawls, J. A: Theory of justice, N.Y, 1971, p.60. 

File đính kèm:

  • pdfdam_bao_cong_bang_xa_hoi_tu_goc_nhin_nhom_loi_ich.pdf