Kinh tế tri thức và toàn cầu hóa

Tóm tắt: Kinh tế tri thức xuất hiện như một thời đại kinh tế mới, với một nguyên

lý sáng tạo của cải hoàn toàn khác với các thời đại kinh tế nông nghiệp hoặc công

nghiệp trước đó. Nó dựa trên sự dẫn dắt của nguồn lực trí tuệ và khả năng kết nối sâu,

rộng trên không gian toàn cầu. Điều đó khiến cho toàn cầu hóa trở thành một quá trình

khó đảo ngược, diễn tiến nhanh, sâu, rộng và vận hành trên cơ sở của chính nó - một

nền kinh tế tri thức, mang bản chất toàn cầu. Trong bối cảnh của một thời đại như vậy,

một nước đang phát triển như Việt Nam, dù có điểm xuất phát thấp, cũng sẽ bị đặt một

cách tự nhiên vào “trường” tương tác của nền kinh tế tri thức và buộc phải xem xét lại

các khía cạnh khác nhau của tư duy phát triển. Để tiến bước theo yêu cầu của thời đại,

việc đổi mới thể chế nhằm tăng cường năng lực hội nhập thực sự vào nền kinh tế thế

giới là không tránh khỏi.

pdf 12 trang yennguyen 7220
Bạn đang xem tài liệu "Kinh tế tri thức và toàn cầu hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh tế tri thức và toàn cầu hóa

Kinh tế tri thức và toàn cầu hóa
Phí Mạnh Hồng 
 3 
Kinh tế tri thức và toàn cầu hóa 
Phí Mạnh Hồng * 
Tóm tắt: Kinh tế tri thức xuất hiện như một thời đại kinh tế mới, với một nguyên 
lý sáng tạo của cải hoàn toàn khác với các thời đại kinh tế nông nghiệp hoặc công 
nghiệp trước đó. Nó dựa trên sự dẫn dắt của nguồn lực trí tuệ và khả năng kết nối sâu, 
rộng trên không gian toàn cầu. Điều đó khiến cho toàn cầu hóa trở thành một quá trình 
khó đảo ngược, diễn tiến nhanh, sâu, rộng và vận hành trên cơ sở của chính nó - một 
nền kinh tế tri thức, mang bản chất toàn cầu. Trong bối cảnh của một thời đại như vậy, 
một nước đang phát triển như Việt Nam, dù có điểm xuất phát thấp, cũng sẽ bị đặt một 
cách tự nhiên vào “trường” tương tác của nền kinh tế tri thức và buộc phải xem xét lại 
các khía cạnh khác nhau của tư duy phát triển. Để tiến bước theo yêu cầu của thời đại, 
việc đổi mới thể chế nhằm tăng cường năng lực hội nhập thực sự vào nền kinh tế thế 
giới là không tránh khỏi. 
Từ khóa: Kinh tế tri thức; toàn cầu hóa; vai trò nhà nước; năng lực hội nhập. 
1. Mở đầu 
Toàn cầu hóa không phải là một hiện 
tượng hoàn toàn mới. Nó đã từng xuất hiện 
như một làn sóng lôi cuốn và kết nối các 
nguồn lực kinh tế của các quốc gia khác 
nhau ngay từ cuối thế kỷ thứ XIX. Tuy 
nhiên, với sự xuất hiện của kinh tế tri thức, 
quá trình toàn cầu hóa hiện nay đã mang 
một diện mạo khác hẳn trước. Nó dần trở 
thành một thuộc tính bên trong của kinh tế 
tri thức, hơn là một quá trình tồn tại song 
song với kinh tế tri thức. Nhờ vậy, nó góp 
phần định hình kinh tế tri thức không đơn 
giản chỉ như là một bước phát triển mới của 
lực lượng sản xuất mà như là một thời đại 
kinh tế mới, một cung cách sáng tạo của cải 
mới, chứa đựng những đảo lộn vô cùng to 
lớn trong mọi mặt của đời sống kinh tế - xã 
hội loài người. Từ đó, kinh tế tri thức có 
khả năng lôi cuốn mọi quốc gia vào quỹ 
đạo của nó, buộc chúng phải thích ứng bằng 
cách thay đổi cách thức và con đường phát 
triển của mình. Bàn luận về những vấn đề 
đó, bài báo này muốn rút ra một vài hàm ý 
có ý nghĩa đối với sự lựa chọn phát triển 
của Việt Nam.(*) 
2. Thời đại kinh tế tri thức 
Một cách tổng quát, có thể coi tổng sản 
lượng mà một quốc gia có thể tạo ra trong 
một khoảng thời gian nào đó phụ thuộc vào 
các nguồn lực đầu vào mà quốc gia đó có 
thể huy động và khai thác. Nó có thể diễn 
đạt dưới dạng một hàm sản xuất của xã hội: 
Q = f (L, K, NR, T...), trong đó, Q là tổng 
sản lượng đầu ra, L là số lượng lao động cơ 
bắp, K: lượng vốn hiện vật, NR: lượng tài 
nguyên thiên nhiên, T: tri thức - công nghệ. 
Trong hàm sản xuất xã hội tổng quát này, 
tri thức là một nguồn lực của quá trình tạo 
ra của cải bên cạnh các nguồn lực khác: lao 
(*)
 Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế, 
Đại học Quốc gia Hà Nội. ĐT: 0913203466. 
Email: phimanhhong@gmail.com. 
CHÍNH TRỊ - KINH TẾ HỌC 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 
 4 
động (cơ bắp), vốn hiện vật, đất đai và các 
tài nguyên thiên nhiên khác. 
Năng lực sản xuất của xã hội phụ thuộc 
vào tổng lượng các nguồn lực nói trên. Các 
nguồn lực có khả năng thay thế cho nhau 
cũng như bổ sung cho nhau. Các nguồn lực 
tự nhiên thường có giới hạn: diện tích đất 
đai dần dần bị con người khai thác hết và về 
cơ bản không còn khả năng mở rộng; trữ 
lượng các khoáng sản giảm dần, đặc biệt 
theo đà khai thác nhanh như hiện nay - việc 
tìm kiếm và phát hiện ra các mỏ khoáng sản 
mới vẫn có khả năng duy trì song cơ hội 
ngày càng hiếm. Dân số thế giới vẫn tăng 
lên song động thái là rõ ràng: ở các nước 
phát triển, dân số hầu như không tăng, còn 
ở các nước đang phát triển, sự gia tăng dân 
số đã vượt quá giới hạn cần thiết - trong 
trường hợp này, kiểm soát, hạn chế sự gia 
tăng dân số thậm chí còn có ý nghĩa tích 
cực hơn đối với phát triển. Chỉ có vốn và tri 
thức là có khả năng tích lũy và tăng lên 
không ngừng. Tuy nhiên, khác với tri thức, 
vốn luôn bị hao mòn đi trong quá trình sử 
dụng. Vì thế, người ta luôn phải dùng một 
bộ phận nguồn lực để tái tạo, bù đắp lượng 
vốn bị hao mòn trong quá trình sản xuất 
trước khi thực sự gia tăng quỹ vốn. Tri thức 
là một nguồn lực đặc biệt, khác hẳn các 
nguồn lực khác: không bị cạn kiệt như 
nhiều loại tài nguyên thiên nhiên; không 
phải là một lượng tương đối cố định như đất 
đai; không bị hao mòn trong tiêu dùng như 
vốn; thậm chí tri thức mới có khả năng 
được tạo ra ngay trong quá trình tiêu dùng 
hay sử dụng các tri thức cũ. 
C.Mác cho rằng: “Những thời đại kinh tế 
khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất 
ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng 
cách nào, với những tư liệu lao động 
nào”[3, tr.269]. Dựa vào luận điểm có tính 
chất phương pháp luận này, chúng tôi cho 
rằng: các thời đại kinh tế khác nhau không 
phải ở chỗ chúng dùng loại nguồn lực gì mà 
ở chỗ nguồn lực nào đứng ở vị trí trung 
tâm, có tính chất chi phối, quyết định so với 
các nguồn lực khác trong quá trình sản 
xuất, phân phối, tiêu dùng của cải. Trong 
các thời đại kinh tế khác nhau, tương quan 
và vị thế của các nguồn lực cũng là khác 
nhau. Xét về tổng thể, các bộ phận cấu 
thành của các nguồn lực trong hàm sản xuất 
xã hội là giống nhau. Tuy nhiên, theo sự 
tiến triển của lịch sử, quy mô, chất lượng, 
tính chất của mỗi bộ phận này và mối quan 
hệ giữa chúng dần dần biến đổi. Ở mỗi giai 
đoạn của lịch sử, luôn luôn có những nguồn 
lực đứng ở vị trí tiên phong, dẫn dắt hay chi 
phối quá trình tạo ra của cải. Khi một 
nguồn lực nổi lên ở vai trò dẫn dắt, nó buộc 
các nguồn lực khác phải đóng vai phụ, thích 
ứng theo và điều này tạo nên một cấu trúc 
sản xuất, một hệ thống kinh tế có những đặc 
trưng riêng về cách thức tạo dựng của cải. 
Trong thời đại kinh tế nông nghiệp, do 
con người chỉ mới tích lũy được nguồn tri 
thức ít ỏi nên tri thức chỉ có một vị trí 
khiêm tốn trong quá trình sản xuất. Để khai 
thác tự nhiên, tạo ra những cái cần cho sự 
sinh tồn và phát triển của mình, con người 
buộc phải sử dụng các nguồn lực sẵn có 
trong tự nhiên: sức lao động cơ bắp, đất đai. 
Từ phương thức hái lượm, săn bắt đến biết 
cấy trồng, chăn nuôi gia súc, tuy là những 
bước tiến lớn trên con đường phát triển 
song về cơ bản, sản xuất vẫn là sự khai thác 
tự nhiên một cách trực tiếp. Tri thức con 
người dùng trong sản xuất chỉ là các tri thức 
kinh nghiệm đơn giản, ít ỏi. Vốn tri thức 
nghèo nàn của một nền sản xuất lặp đi, lặp 
lại, dựa trên việc khai thác các nguồn lực 
sẵn có của tự nhiên về bản chất là dễ học 
Phí Mạnh Hồng 
 5 
hỏi, dễ chuyển giao. Tốc độ tạo ra tri thức 
cũng như sự biến đổi của nền sản xuất xã 
hội diễn ra rất chậm. Trong điều kiện đó, 
chỉ cần có được một số ít tri thức kinh 
nghiệm sống cơ bản, người ta có thể đủ 
dùng trong suốt cả cuộc đời. Vì thế, giáo 
dục dài hạn, qua trường học để “tạo ra” tri 
thức cho người lao động không phải là một 
yêu cầu thiết yếu của sản xuất (không phải 
ngẫu nhiên, trong các xã hội nông nghiệp, 
đại bộ phận dân cư là mù chữ). Công cụ sản 
xuất là những công cụ thô sơ, thủ công, sử 
dụng sức người hay động vật. Khả năng 
khai thác, chinh phục tự nhiên của xã hội 
hết sức hạn chế. Năng suất lao động thấp, 
cuộc sống của đại bộ phận dân chúng là 
nghèo khổ, luôn bị đe dọa bởi thiên tai hay 
các lực lượng tự nhiên. Của cải được tạo ra 
nhiều hay ít chủ yếu phụ thuộc vào việc 
khai thác lao động cơ bắp và đất đai. Đất 
đai, lao động thủ công - cơ bắp là phương 
tiện sinh tồn hàng đầu nên chiếm đoạt đất 
đai và nô lệ là đối tượng chủ yếu của các 
cuộc chiến tranh. Do dựa vào nông nghiệp 
thủ công nên dân chúng chủ yếu sống ở 
nông thôn, theo những cộng đồng nhỏ hẹp, 
tương đối khép kín, mang tính chất tự cung, 
tự cấp. Không gian kinh tế của xã hội là 
chật hẹp tương ứng với tính chất khó di 
chuyển hay di chuyển chậm chạp của các 
nguồn lực và sản phẩm của chúng do sự 
vận chuyển chủ yếu là dựa vào sức người 
hay sức súc vật. Xã hội ít biến đổi hay chỉ 
biến đổi một cách chậm chạp. 
Trong thời đại kinh tế công nghiệp, với 
sự ra đời của máy móc, sức mạnh khai thác 
tự nhiên của con người tăng lên gấp bội. 
Con người dùng máy móc khác nhau để 
biến các tài nguyên thiên nhiên thành của 
cải, dùng ô tô, tàu hỏa hay các phương tiện 
cơ giới để đi lại, vận chuyển. Sức sản xuất 
của xã hội tăng lên nhanh chóng. Sản xuất 
ngày càng có tính chất hàng loạt, nhất là từ 
khi điện được phát minh để trở thành loại 
năng lượng tiện dụng, để thích ứng với 
năng lực to lớn của những máy móc. Nền 
sản xuất được chuyên môn hóa cao theo 
kiểu mỗi người đều cố gắng sản xuất cho 
người khác, cho thị trường. Các cộng đồng 
kinh tế nhỏ hẹp, tự cấp dần dần bị phá vỡ, 
nhường chỗ cho nền kinh tế mang tầm quốc 
gia. Các đô thị xuất hiện ngày càng nhiều, và 
càng ngày càng trở thành trung tâm của đời 
sống kinh tế - xã hội. Năng suất lao động 
được nâng cao cho phép xã hội dần dần vượt 
qua được ngưỡng sinh tồn, có tích lũy. Trên 
cơ sở tích lũy và đầu tư, dự trữ vốn của nền 
kinh tế ngày càng gia tăng và điều này tạo ra 
sự tăng trưởng dài hạn thực sự cho các nền 
kinh tế công nghiệp. Một xã hội có khả năng 
duy trì sự biến đổi liên tục, không ngừng 
trên nền tảng phát minh và ứng dụng khoa 
học, công nghệ cho đến lúc này mới thực sự 
hình thành. Tri thức giờ đây trở nên quan 
trọng hơn, có ảnh hưởng lớn hơn đến các 
tiến trình kinh tế. Tham gia vào quá trình 
này, người lao động cần được đào tạo và 
trang bị những kiến thức nhất định. Giáo 
dục đại chúng trở thành một thành tố thiết 
yếu của sản xuất xã hội. 
Đương nhiên, với những biến đổi nói 
trên, trong các nền kinh tế công nghiệp, yếu 
tố dẫn dắt quá trình kinh tế không còn là đất 
đai hay sức lao động thủ công, cơ bắp. Khi 
sức mạnh của con người trong việc tạo 
dựng của cải được nhân lên gấp bội trong 
máy móc, việc tạo ra máy móc và những 
điều kiện để hệ thống sản xuất dựa máy 
móc hoạt động mới là quan trọng. Hệ thống 
năng lượng là một trong những điều kiện 
thiết yếu như vậy. Trong nền kinh tế nông 
nghiệp, năng lượng trực tiếp dựa trên sức 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 
 6 
người và sức động vật chỉ tạo ra được 
những sức mạnh hạn chế. Với việc phát 
minh ra máy hơi nước, cuộc cách mạng 
công nghiệp lần thứ nhất diễn ra là khởi đầu 
cho thời đại kinh tế công nghiệp. Hệ thống 
sản xuất dựa trên các động cơ hơi nước gắn 
liền với việc khai thác và sử dụng nguồn 
năng lượng từ than đá. Trong bước quá độ 
này, những đầu tàu đầu tiên của nền kinh tế 
thế giới là những nước mà người ta có thể 
dễ dàng tiếp cận đến nguồn năng lượng này 
như nước Anh và sau đó là nước Đức. Ở 
những nơi này, nguồn tài nguyên than đá là 
dồi dào, dễ khai thác, khiến cho việc triển 
khai kỹ thuật sản xuất mới trở thành hiện 
thực. Tầm quan trọng đối với sản xuất của 
các nguồn lực tự nhiên như đất đai, lao 
động cơ bắp chuyển dịch dần sang những 
loại tài nguyên thiên nhiên khác như than 
đá ở thời kỳ đầu cũng như dầu mỏ (năng 
lượng) hay sắt thép (nguyên liệu) ở thời kỳ 
sau. Có lẽ vì chú ý đến điều này mà một số 
nhà kinh tế gọi thời đại kinh tế công nghiệp 
là giai đoạn kinh tế tài nguyên - giai đoạn 
mà sự phát triển kinh tế dựa chủ yếu trên sự 
chiếm hữu và phân phối các tài nguyên 
thiên nhiên [8, tr.36 - 38]. Tuy nhiên cách 
nhìn nhận như vậy là không thỏa đáng. Vấn 
đề là ở chỗ phương thức tạo ra của cải của 
thời đại kinh tế nông nghiệp là dựa trên việc 
khai thác các tài nguyên thiên nhiên một 
cách trực tiếp, gắn liền với sức mạnh cơ bắp 
tự nhiên của con người hay động vật. Trong 
giới hạn đó, đất đai dùng để trồng trọt hay 
chăn nuôi là tài nguyên thiên nhiên dễ khai 
thác nhất, và trở nên là quan trọng nhất. 
Trong nền kinh tế công nghiệp, với việc 
phát minh ra máy móc, một nguyên lý sản 
xuất của cải khác được tạo ra. Sức mạnh mà 
con người dùng để tác động vào tự nhiên 
trong quá trình sản xuất không còn là sức 
mạnh cơ bắp tự nhiên (của con người hay 
động vật). Nó bị thay thế bằng sức mạnh 
của máy móc. Chỉ trên cơ sở hệ thống máy 
móc mới, con người mới có khả năng khai 
thác các nguồn khoáng sản khác nhau trong 
lòng đất như than đá, dầu mỏ... để tạo ra 
nguồn năng lượng mới, to lớn gấp bội cho 
chính các hoạt động sản xuất của mình. Sản 
xuất với hệ thống máy móc, các động cơ 
hơi nước và các thiết bị cơ khí... làm cho 
con người ngay từ đầu đã có khả năng tạo 
ra lượng sản phẩm lớn gấp bội so với nhu 
cầu trực tiếp của những người sản xuất cho 
chúng. Chi phí vận chuyển than đá tốn kém 
làm cho hệ thống xe lửa chạy bằng máy hơi 
nước nói riêng và hệ thống công nghiệp dựa 
trên động cơ hơi nước lúc đầu chỉ xuất hiện 
ở những nơi có nguồn cung ứng than dễ 
khai thác như chúng ta đã nói. Tuy nhiên hệ 
thống này ngay từ đầu đã tiềm ẩn ưu thế 
của việc sản xuất với quy mô lớn, tập trung, 
có tính chất hàng loạt. Việc phát minh ra 
điện gắn với cuộc cách mạng công nghiệp 
lần thứ hai tuy tạo ra nhiều đảo lộn (một 
loạt ngành công nghiệp mới ra đời, đồng 
thời các ngành công nghiệp cũ phải đổi 
mới, thích hợp với nguồn năng lượng mới 
rẻ hơn, dễ sử dụng hơn, hiệu suất cao hơn), 
song lại càng nổi bật hơn ưu thế của 
phương thức sản xuất tập trung, hàng loạt. 
Khi sản xuất dựa trên các nguồn năng 
lượng phân tán ở sức người và sức động vật 
đã bị thay thế bởi một hệ thống sản xuất 
dựa trên sự khai thác tập trung các mỏ 
nguyên, nhiên liệu, thì các công việc sản 
xuất cũng dần dần bị tập trung trong các 
công xưởng, nhà máy quy mô lớn. Đến lượt 
chúng, các nhà máy, công xưởng này cũng 
có khuynh hướng tập trung trong những đô 
thị có số lượng dân cư lớn hơn nhiều so với 
các làng, xã nông thôn trước đây. Nguyên 
Phí Mạnh Hồng 
 7 
lý sản xuất tập trung, quy mô lớn đó đòi hỏi 
khối lượng vốn lớn, được tập trung hóa. 
Phương thức sản xuất dựa trên sự tập trung 
máy móc cơ khí - vốn hiện vật, và tương ứng 
với nó là sự tập trung vốn tài chính làm nổi 
bật lên vị trí và vai trò đích thực của nguồn 
lực vốn trong quá trình sáng tạo của cải ở 
thời đại kinh tế công nghiệp. Giờ đây yếu tố 
chi phối, dẫn dắt các quá trình sản xuất 
không còn là đất đai hay sức lao động cơ bắp 
mà là vốn. Tăng trưởng kinh tế bắt đầu thực 
sự diễn ra và nó bị quyết định bởi vốn, hay 
đúng hơn là khả năng tích lũy vốn. Chỗ nào 
tích lũy vốn nhanh hơn, chỗ đó tăng trưởng 
nhanh hơn, do đó thành công hơn về mặt 
kinh tế. Quyền lực kinh tế của mỗi người, 
mỗi doanh nghiệp hay thậm chí cả nền kinh 
tế nằm ở khả năng sở hữu vốn hay tư bản. 
Nắm giữ vốn là nền tảng để nắm giữ hay chi 
phối các nguồn lực khác, dù đó là đất đai, tài 
nguyên thiên nhiên hay là lao động có kỹ 
năng và tri thức. Các doanh nghiệp có quy 
mô vốn lớn nhất cũng là các doanh nghiệp 
có khả năng đầu tư nhiều nhất cho các hoạt 
động nghiên cứu, triển khai. Kinh tế công 
nghiệp dựa trên nền tảng cơ khí hóa, điện 
khí hóa và sản xuất hàng loạt cho các nhu 
cầu phổ biến coi vốn là yếu tố sản xuất số 
một. Nếu ở bước khởi đầu, cách mạng công 
nghiệp nổ ra ở nước Anh thì vào giữa thế kỷ 
XX, quốc gia thành công với nền kinh tế 
công nghiệp như Nhật Bản lại là một nơi r ...  thời gian 
từ năm 1880 đến năm 1914, được bắt đầu 
bằng một thỏa thuận về cắt giảm các hàng 
rào thuế quan giữa Anh và Pháp. Cơ sở của 
nó chính là nhờ sự cắt giảm trong chi phí 
vận tải nhờ công nghệ mới cho phép hình 
thành hệ thống đường xe lửa và tàu thủy 
chạy bằng động cơ hơi nước. Nhờ đó mà 
thương mại quốc tế gia tăng nhanh chóng, 
một lượng vốn lớn được chuyển từ Anh và 
một số quốc gia Châu Âu sang các nước 
đang phát triển cũng như hàng chục triệu 
người đã di cư từ Châu Âu đến Bắc Mỹ và 
Australia để khai phá những miền đất mới. 
Làn sóng toàn cầu hóa đầu tiên này bị gián 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 
 10 
đoạn bởi hai cuộc chiến tranh thế giới với 
sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ. Từ sau 
Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1980, 
toàn cầu hóa lại được phục hồi với làn sóng 
thứ hai. Tự do hóa thương mại một lần nữa 
được thúc đẩy với sự dỡ bỏ dần các hàng rào 
thuế quan giữa các nước. Tuy nhiên, phải 
đến năm 1980, hàng rào thuế quan về các 
hàng hóa chế tạo giữa các nước phát triển, 
về cơ bản mới được tháo dỡ. Trong khi đó 
các nước đang phát triển, mặc dù không 
tham gia được bao nhiêu vào việc xuất khẩu 
các hàng hóa chế tạo, vẫn phải đối mặt với 
những ngăn cản ngặt nghèo trong việc xuất 
khẩu các mặt hàng sơ chế, có khả năng cạnh 
tranh với các mặt hàng tương tự ở các nước 
phát triển. Các nước phát triển được hưởng 
lợi nhiều từ việc tập trung, chuyên môn hóa 
và phát huy lợi thế nhờ quy mô để sản xuất 
và xuất khẩu các hàng hóa chế tạo công 
nghiệp. Trong làn sóng này, các luồng di 
chuyển quốc tế của vốn và lao động không 
được phục hồi đáng kể. 
Làn sóng toàn cầu hóa hiện đang diễn ra 
trong nền kinh tế thế giới mang một tính 
chất mới, khác biệt về chất so với những làn 
sóng trước đó. Nó dựa trên một nền tảng 
công nghệ hoàn toàn mới, gắn liền với cuộc 
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại 
với sức mạnh đột phá khủng khiếp của nó. 
Lần đầu tiên, toàn cầu hóa gắn liền với quá 
trình tri thức hóa mạnh mẽ toàn bộ các hoạt 
động của các nền kinh tế, với sự khẳng định 
ngôi vị số một của tri thức trong các nguồn 
lực phát triển. Cái gọi là toàn cầu hóa trước 
đây vẫn dựa trên nguyên lý của nền kinh tế 
công nghiệp, đại cơ khí, sản xuất tập trung, 
hàng loạt. Nó vẫn lấy các nền kinh tế quốc 
gia làm chủ thể kinh tế chính để thực hiện 
các mối liên kết kinh tế quốc tế, chủ yếu là 
về thương mại. Làn sóng toàn cầu hóa mới 
dựa trên một nguyên lý khác hẳn - nguyên 
lý của nền kinh tế tri thức, lấy trí tuệ và sự 
kết nối làm nền tảng của sự sáng tạo của 
cải. Giờ đây, chính không gian kinh tế toàn 
cầu, chính nền kinh tế thế giới toàn cầu mà 
đại diện tiêu biểu là các công ty xuyên quốc 
gia mới là sân chơi chính, chủ thể kinh tế 
chính, có ý nghĩa chi phối. Trong bối cảnh 
các đường biên giới kinh tế quốc gia nhạt 
nhòa dần, các nền kinh tế quốc gia buộc 
phải trở thành các bộ phận cấu thành, phụ 
thuộc của một nền kinh tế chung. Như đã 
nói, kinh tế tri thức về bản chất là nền kinh 
tế toàn cầu, thì chỉ đến khi kinh tế tri thức 
định hình, toàn cầu hóa mới có hình thái 
xác định, chín muồi của nó. Kể từ đây nó sẽ 
trở thành một xu hướng không thể đảo 
ngược, tự vận hành trên cơ sở của chính 
mình, khác hẳn với những làn sóng toàn cầu 
hóa trước đây. Vì lẽ đó, chúng tôi muốn 
nhấn mạnh rằng, quá trình toàn cầu hóa 
thực sự đồng nghĩa với tiến trình định hình 
và phát triển nền kinh tế tri thức. 
4. Một vài hàm ý 
Trong nền kinh tế công nghiệp, khi 
không gian của các hoạt động kinh tế thích 
hợp là ở tầm vực quốc gia, hiển nhiên các 
nhà nước quốc gia đóng vai trò quan trọng. 
Nhà nước là người tạo ra và thực thi các 
luật lệ quốc gia, xây dựng và triển khai các 
chính sách phát triển quốc gia, phục vụ các 
lợi ích quốc gia. Sức mạnh của các nhà 
nước quốc gia là không thể nghi ngờ. Nhà 
nước đóng vai trò quan trọng trong việc tạo 
ra môi trường thể chế và pháp lý cần thiết 
để cho các quan hệ kinh tế thị trường có thể 
vận hành được. Nhà nước cũng đứng ra 
cung cấp các hàng hóa công cộng quốc gia 
mà thị trường không cung cấp được hoặc 
cung cấp không hiệu quả. Nhà nước thực 
hiện các hoạt động điều tiết (chống độc 
Phí Mạnh Hồng 
 11 
quyền, kiểm soát ô nhiễm, khuyến khích 
giáo dục...) nhằm sửa chữa các thất bại thị 
trường. Các chính sách của nhà nước như 
chi tiêu và thuế khóa... có ảnh hưởng quan 
trọng đến việc bảo hộ các ngành sản xuất 
trong nước, duy trì việc làm, ổn định hóa và 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như thực 
hiện công bằng xã hội. 
Thời đại kinh tế tri thức - toàn cầu sẽ 
định vị lại vai trò của các nhà nước quốc 
gia. Khi các đường biên giới quốc gia ít có 
ý nghĩa kinh tế đối với sự di chuyển các 
nguồn lực và hàng hóa, khái niệm chủ 
quyền quốc gia tự nó đã thay đổi. Các nhân 
tố chung, có tính toàn cầu càng ngày càng 
can dự sâu vào đời sống của mỗi quốc gia, 
vào các quyết định quốc gia. Sự trồi sụt 
trong sản lượng dầu khai thác ở Trung 
Đông có thể làm chao đảo nền kinh tế của 
nhiều nước. Sự phá sản của một loạt ngân 
hàng/công ty ở Mỹ vào năm 2008 đã kéo 
nền kinh tế thế giới vào cuộc khủng hoảng 
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. 
Cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp khiến 
cho gần như cả Châu Âu và nhiều nước 
khác phải lo lắng. Thu nhập của người nông 
dân trồng cà phê ở Việt Nam hóa ra phụ 
thuộc chủ yếu vào sản lượng sản xuất và 
xuất khẩu cà phê ở Brasil. Khi các quốc gia 
hay công ty xây dựng các kế hoạch phát 
triển kinh tế/kinh doanh của mình, tình hình 
và môi trường kinh tế chung của nền kinh tế 
thế giới ngày càng là những biến số quan 
trọng nhất buộc phải tính tới trước tiên. Đó 
là chưa kể những vấn đề như môi trường, 
bệnh tật, đói nghèo, tội phạm... ngày càng 
trở thành mối quan tâm chung toàn cầu, chi 
phối cách quan tâm và xử lý của mỗi quốc 
gia. Trong một “sân chơi” chung, người ta 
càng ngày càng bị chi phối bởi các luật lệ 
chung, các giá trị, chuẩn mực chung, các 
quy tắc chung. Quyền lực độc lập của các 
nhà nước quốc gia, nhất là ở các nước nhỏ 
và nghèo bị thu hẹp lại một cách nghiêm 
trọng. Một mặt, nó bị thách thức bởi các thể 
chế quốc tế có tính cạnh tranh: các công ty 
xuyên quốc gia, các tổ chức hay định chế 
quốc tế, như Liên Hợp Quốc, Ngân hàng 
thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức 
Thương mại thế giới (WTO)... các tổ chức 
phi chính phủ. Vai trò của các thể chế này 
tăng lên trong nền kinh tế toàn cầu đồng 
nghĩa với việc cắt giảm tương ứng quyền 
lực của các nhà nước quốc gia. Mặt khác, 
tính linh hoạt cần thiết nảy sinh từ sự biến 
đổi nhanh của các sự kiện kinh tế cũng 
buộc nhà nước càng ngày càng phải chia sẻ 
quyền lực của mình cho các tổ chức và thể 
chế phi nhà nước bên dưới trong nước. Các 
cộng đồng dân cư địa phương, các hiệp hội 
nghề nghiệp, các đoàn thể, các câu lạc bộ 
văn hóa hay thể thao... ngày càng có tiếng 
nói mạnh hơn trong việc ra quyết định hay 
thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội của 
nhà nước. Trong bối cảnh đó các chính sách 
điều tiết, kiểm soát các hoạt động kinh tế 
truyền thống (thuế, kiểm soát hành chính, 
kiểm soát cung ứng tiền, chính sách thương 
mại, đầu tư...) mà các nhà nước thường 
thực thi trước đây hiện nay ít mang tính độc 
lập hơn. Chẳng hạn, người ta giờ đây khó 
có thể nhân danh chủ quyền quốc gia để có 
thể đánh thuế cao vào hàng hóa nhập khẩu 
nhằm bảo vệ các ngành công nghiệp trong 
nước. Hàng rào thuế quan của từng nước 
phải hạ xuống hay tháo dỡ theo chuẩn mực 
quốc tế chung. Việc đánh thuế thu nhập cá 
nhân cũng vậy. Nếu một nước đánh thuế 
thu nhập quá cao vào công dân của mình, 
những vận động viên hay ca sỹ tài năng của 
nước này sẽ có xu hướng chuyển sang hành 
nghề ở nước khác, nơi mà các mức thuế thu 
nhập được coi là dễ chịu hơn. Sự di chuyển 
dễ dàng này không cho phép một nước có 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 
 12 
thể áp dụng một chính sách thuế biệt lập, 
lệch quá xa mặt bằng chung theo đúng chủ 
quyền hình thức của mình. Về nguyên tắc, 
mỗi nước vẫn có chủ quyền trong việc xây 
dựng một chính sách tiền tệ quốc gia độc 
lập. Thế nhưng nếu chính sách đó khiến cho 
lãi suất trong nước trở nên thấp hơn nhiều 
so với lãi suất thế giới, những dòng tiền tiết 
kiệm trong nước có thể ồ ạt chảy ra ngoài, 
để đến với những nơi người ta được thụ 
hưởng mức lãi suất cao hơn. Chính sách 
kiểm soát vốn sẽ ngày càng khó hơn trước 
xu hướng tự do hóa tài chính, nhằm làm 
nguồn vốn thế giới được phân bổ hiệu quả 
hơn trên phạm vi toàn cầu, trong điều kiện 
thị trường và công nghệ hiện đại cho phép 
nó dễ dàng di chuyển. Trong thế giới toàn 
cầu hóa của kinh tế tri thức, khi mà mỗi 
nước buộc phải hội nhập quốc tế, “sân 
chơi” nhà không còn là “chỗ chơi” riêng 
của các doanh nghiệp hay công dân trong 
nước. Từ bỏ hay nhượng lại một phần chủ 
quyền quốc gia là sự đánh đổi bắt buộc vì 
sự phát triển trong điều kiện mới. Rõ ràng 
vai trò của các nhà nước quốc gia bị thu hẹp 
và buộc phải thay đổi. 
Sự thay đổi vai trò của nhà nước quốc 
gia trong nền kinh tế tri thức, toàn cầu hóa 
dẫn đến một số hệ lụy, buộc người ta phải 
tư duy lại một số khái niệm cũ, quen thuộc 
trước đây. Những thuật ngữ như “độc lập”, 
“tự chủ”, “chủ quyền” hoặc là không còn 
thích hợp, hoặc phải mang một nội dung 
mới, khác trước. Trong một nền kinh tế có 
bản chất toàn cầu, mỗi nền kinh tế quốc gia 
không còn là một thực thể độc lập. Sự phụ 
thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào nền kinh tế 
thế giới chung, đang định hình rất nhanh 
khiến cho mỗi nền kinh tế, kể cả những nền 
kinh tế lớn nhất như nền kinh tế Mỹ cũng 
trở thành không độc lập. Điều đó cũng 
giống như trong nền kinh tế của thời đại 
công nghiệp, từng làng, xã hay các cộng 
đồng kinh tế địa phương không còn là 
những đơn vị kinh tế độc lập, mặc dù trước 
đó, trong thời đại kinh tế nông nghiệp 
chúng quả là những thực thể độc lập. Sự 
tiến triển của Liên minh Châu Âu (EU) 
dường như cho chúng ta thấy một hình mẫu 
nào đó của việc chuyển giao dần quyền lực 
độc lập của các nhà nước quốc gia cho một 
thể chế lớn hơn tầm vực quốc gia. Sự hình 
thành Cộng đồng Hiệp hội các quốc gia 
Đông Nam Á (AC), đặc biệt với trụ cột 
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) cũng đi 
theo logic này. Khi mà các nhà nước càng 
ngày càng ít có khả năng kiểm soát các 
nguồn lực trên lãnh thổ quốc gia của mình, 
khi mà sự di dân có thể thực hiện dễ dàng 
và ngày càng vượt khỏi tầm chi phối của 
các nhà nước (Bill Gates, Mark Zuckerburg... 
là những công dân Mỹ, song có lẽ đứng về 
phương diện kinh tế, về phạm vi các hoạt 
động kinh doanh của họ và tác động kinh tế 
mà chúng tạo ra, họ giống như những công 
dân toàn cầu nhiều hơn), khi mà các chính 
sách và luật lệ quốc gia, cũng như cách thức 
tổ chức đời sống chính trị ngày càng bị chi 
phối bởi các chính sách, luật lệ và các quy 
tắc chính trị chung (việc chúng ta phải sửa 
đổi hệ thống pháp luật cho phù hợp với 
những yêu cầu của WTO để được quyền 
tham gia vào tổ chức này là một ví dụ), thì 
cái gọi là “chủ quyền quốc gia” đã không 
còn nội dung nguyên nghĩa như trước. 
Ngay ở thời điểm hiện nay, khi mà nền kinh 
tế tri thức mới trong giai đoạn định hình, về 
nguyên tắc, tuy mỗi nước đều có khả năng 
“tự quyết” trong việc xây dựng các chính 
sách và quy tắc phát triển của mình, song 
nếu các chính sách và quy tắc đó không phù 
hợp với “thông lệ quốc tế”, không phù hợp 
với các giá trị hay chuẩn mực toàn cầu, thì 
những nước này sẽ bị bỏ rơi khỏi tiến trình 
Phí Mạnh Hồng 
 13 
phát triển chung. Điều này là khách quan, 
bắt nguồn từ những đặc điểm của thời đại 
kinh tế mới. Cách nói xây dựng nền kinh tế 
độc lập, tự chủ vốn thích hợp với thời đại 
kinh tế cũ đang mất dần đi nội dung thực 
chất của nó trong điều kiện phát triển mới. 
5. Kết luận 
Sự xuất hiện của kinh tế tri thức như một 
thời đại kinh tế mới, mang bản chất toàn 
cầu hóa, dựa trên những nguyên lý sáng tạo 
của cải hoàn toàn mới sẽ buộc chúng ta sẽ 
phải xem xét lại hầu hết mọi khía cạnh liên 
quan đến tư duy phát triển. Áp lực, sức lôi 
cuốn nhanh, mạnh của toàn cầu hóa gắn 
liền với kinh tế tri thức tác động sâu sắc đến 
mọi nước, mọi lĩnh vực. Nó buộc mỗi nước 
phải tích cực, chủ động hội nhập vào nền 
kinh tế thế giới nếu không muốn bị gạt ra 
bên lề của tiến trình phát triển chung. Nó tạo 
ra nhiều cơ hội cho các nước đi sau, song 
cũng đặt ra một loạt thách thức chưa từng có 
đối với các nước này. Tham gia vào tiến 
trình toàn cầu hóa, các nước nghèo có khả 
năng tiếp cận, tận dụng được các nguồn lực 
(vốn, công nghệ/tri thức, phương cách quản 
lý hiện đại...) và thị trường quốc tế để phát 
triển. Các nguồn lực nội địa như nguồn nhân 
lực có thể được nâng cấp và gia tăng chất 
lượng nhanh hơn bằng những phương thức 
mới có tính thời đại (thông qua việc tiếp cận 
đến các phương thức đào tạo, giáo dục tiên 
tiến, đặc biệt qua internet). Những cơ hội 
như vậy chỉ thật sự có tầm quan trọng to lớn 
trong nền kinh tế tri thức toàn cầu, nơi mà 
các nguồn lực có tính cơ động cực kỳ cao và 
bị chi phối bởi tri thức. Ngược lại, thời đại 
toàn cầu hóa với đặc trưng là tốc độ của 
những biến đổi trở nên cực kỳ cao cũng tạo 
ra nguy cơ tụt hậu ngày càng lớn đối với các 
nước đang phát triển. Thách thức lớn nhất 
trong phát triển đối với những nước này lại 
nằm ở khả năng đứng ngoài nền kinh tế thế 
giới hoặc thiếu năng lực để thực sự hội nhập 
vào nó. Với điều sau cùng, việc tích cực, chủ 
động hội nhập chủ yếu phải được đo bằng 
những đổi mới thể chế kinh tế và chính trị 
tương ứng, phù hợp với nguyên lý của thời 
đại kinh tế tri thức để tạo ra và tăng cường 
năng lực hội nhập. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Ban Khoa giáo Trung ương - Bộ Khoa học 
Công nghệ và Môi trường - Bộ Ngoại giao 
(2000), Kinh tế tri thức và những vấn đề 
đặt ra đối với Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo 
khoa học, Hà Nội. 
[2] Phí Mạnh Hồng (Chủ biên) (2013), Vai trò 
của nhà nước trong thời đại kinh tế tri thức 
- một số hàm ý cho Việt Nam, Đề tài Nghiên 
cứu khoa học, Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
3] C. Mác, Ph, Ăngghen (1995), Toàn tập, t.23, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[4] Ngân hàng thế giới (1998), Tri thức cho 
phát triển. Báo cáo về tình hình phát triển 
thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[5] Ngân hàng thế giới (1998), Toàn cầu hóa, 
tăng trưởng và nghèo đói, xây dựng một 
nền kinh tế hội nhập, Nxb Văn hóa - Thông 
tin, Hà Nội. 
[6] L.C. Thurow (2000), Sáng tạo của cải. 
Những quy tắc mới cho các cá nhân, công 
ty và quốc gia trong nền kinh tế dựa trên 
tri thức, Nicholas Brealey, London. 
[7] Alvin Toffler (1992), Làn sóng thứ ba (The 
third wave), Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. 
[8] Ngô Quý Tùng (2000), Kinh tế tri thức: Xu 
thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
 [9] Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung 
ương (2000), Kinh tế tri thức: Nhận thức 
và hành động, Nxb Thống kê, Hà Nội. 
[10] Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung 
ương (2001), Kinh tế tri thức: Vấn đề và 
giải pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 
 14 

File đính kèm:

  • pdfkinh_te_tri_thuc_va_toan_cau_hoa.pdf