Nâng cao nhận thức của thanh niên về phòng chống bạo lực gia đình

Tóm tắt: Bài viết phân tích một cách tổng quan về thực trạng bạo lực gia

đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, cả từ khía cạnh hành vi và nhận

thức, thái độ của người dân. Từ các kết quả nghiên cứu đã có, tác giả đã chỉ ra

những yếu tố có liên quan đến việc duy trì các hành vi bạo lực gia đình đối với

phụ nữ như bất bình đẳng trong các quan hệ giới, yếu tố gốc rễ của nạn bạo lực

này; các nguyên cớ trực tiếp như tình trạng say rượu, những mâu thuẫn trong

làm ăn, trong sinh hoạt và khó khăn về kinh tế. Những hậu quả tiêu cực do bạo

lực gia đình đối với phụ nữ gây ra đối với cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã

hội đã được tác giả phân tích một cách chi tiết. Tác giả nhấn mạnh rằng, nhận

thức đầy đủ về tác hại của các hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ, sự tham

gia của thanh niên vào công cuộc đấu tranh chống lại các hành vi bạo lực này

có ý nghĩa rất lớn. Một số vấn đề thanh niên cần quan tâm là: có quan niệm

đúng đắn về bình đẳng giới; có hiểu biết rõ ràng về các hành vi bạo lực gia

đình và các biện pháp nhằm phòng, chống bạo lực gia đình; tham gia tích cực

vào các hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình.

pdf 14 trang yennguyen 4880
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao nhận thức của thanh niên về phòng chống bạo lực gia đình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao nhận thức của thanh niên về phòng chống bạo lực gia đình

Nâng cao nhận thức của thanh niên về phòng chống bạo lực gia đình
Nâng cao nhận thức của thanh niên... 
 33
NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA THANH NIÊN 
VỀ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH 
NGUYỄN HỮU MINH* 
Tóm tắt: Bài viết phân tích một cách tổng quan về thực trạng bạo lực gia 
đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, cả từ khía cạnh hành vi và nhận 
thức, thái độ của người dân. Từ các kết quả nghiên cứu đã có, tác giả đã chỉ ra 
những yếu tố có liên quan đến việc duy trì các hành vi bạo lực gia đình đối với 
phụ nữ như bất bình đẳng trong các quan hệ giới, yếu tố gốc rễ của nạn bạo lực 
này; các nguyên cớ trực tiếp như tình trạng say rượu, những mâu thuẫn trong 
làm ăn, trong sinh hoạt và khó khăn về kinh tế. Những hậu quả tiêu cực do bạo 
lực gia đình đối với phụ nữ gây ra đối với cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã 
hội đã được tác giả phân tích một cách chi tiết. Tác giả nhấn mạnh rằng, nhận 
thức đầy đủ về tác hại của các hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ, sự tham 
gia của thanh niên vào công cuộc đấu tranh chống lại các hành vi bạo lực này 
có ý nghĩa rất lớn. Một số vấn đề thanh niên cần quan tâm là: có quan niệm 
đúng đắn về bình đẳng giới; có hiểu biết rõ ràng về các hành vi bạo lực gia 
đình và các biện pháp nhằm phòng, chống bạo lực gia đình; tham gia tích cực 
vào các hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình. 
Từ khóa: Thanh niên, phụ nữ, gia đình, bạo lực gia đình, bình đẳng giới. 
1. Phòng chống bạo lực gia đình: 
Nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của 
toàn xã hội 
Bạo lực gia đình (BLGĐ), đặc biệt là 
bạo lực với phụ nữ, là hiện tượng đang 
tồn tại ở tất cả các nước. Là một sự vi 
phạm thân thể và nhân phẩm của con 
người, bạo lực gia đình đã và đang tác 
động đến một bộ phận không nhỏ phụ 
nữ trên toàn thế giới và là một trở ngại 
lớn cho bình đẳng giới. 
Theo Luật Phòng chống bạo lực gia 
đình (2007), Bạo lực gia đình là hành vi 
cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại 
hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, 
tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác 
trong gia đình.(*)Luật Phòng chống bạo 
lực gia đình đã nêu rõ 9 nhóm hành vi bị 
coi là bạo lực gia đình. Những hành vi 
bạo lực gia đình có thể nhìn thấy được 
hoặc không nhìn thấy được. Bạo lực nhìn 
thấy được có thể bao gồm bạo lực thân 
thể, bạo lực tình dục. Bạo lực không nhìn 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Gia 
đình và Giới. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 (72) - 2013 
 34
thấy được có thể bao gồm các hành vi 
tâm lý, tình cảm, tinh thần khác. Tuy 
nhiên, không có một ranh giới rõ ràng 
giữa các loại bạo lực, bởi có những loại 
bạo lực vừa nhìn thấy được, thể hiện qua 
các tác động về cơ thể, sức khỏe, vừa 
không nhìn thấy được thể hiện qua 
những tổn thương về tinh thần, tình cảm, 
ví dụ như bạo lực tình dục. 
Nhà nước Việt Nam đã ban hành 
nhiều văn bản pháp lý khá chặt chẽ liên 
quan đến phòng chống bạo lực gia đình. 
Bằng việc ký Công ước về xóa bỏ mọi 
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 
(CEDAW), Việt Nam thể hiện sự cam 
kết đầy đủ của mình đối với việc chấm 
dứt mọi hình thức xâm phạm quyền phụ 
nữ và phân biệt đối xử với phụ nữ. 
Nhiều văn bản pháp luật và chính sách 
thể hiện rõ nguyên tắc bình đẳng nam 
nữ, không phân biệt đối xử dưới bất kỳ 
hình thức nào. Hiến pháp 1992 quy 
định: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân 
biệt đối xử với phụ nữ, xâm phạm nhân 
phẩm phụ nữ” (Điều 63). Bộ Luật hình 
sự năm 1999 cũng quy định “người nào 
dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm 
trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt 
động chính trị, kinh tế, khoa học, văn 
hóa và xã hội, thì bị phạt cảnh cáo, cải 
tạo không giam giữ đến một năm hoặc 
phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm” (Điều 
130). Theo Luật Tổ chức Chính phủ 
(1992), các cấp chính quyền phải “thực 
hiện các chính sách và biện pháp bảo 
đảm quyền bình đẳng nam nữ về mọi 
mặt... có biện pháp ngăn ngừa và chống 
mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ 
nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”. 
Ngày 16 tháng 5 năm 2005, Thủ 
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 
106/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt 
Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam 
giai đoạn 2005-2010. Tại Mục tiêu 2 của 
Chiến lược đã xác định: tăng cường 
phòng, chống bạo lực trong gia đình; 
khuyến khích phát huy các phong tục, 
tập quán tốt đẹp và vận động người dân 
xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu 
trong hôn nhân và gia đình. 
Cùng với việc ban hành các văn bản 
nêu trên, trong những năm qua, các cơ 
quan chính quyền, các tổ chức xã hội 
và cộng đồng dân cư đã tổ chức nhiều 
hoạt động để góp phần ngăn chặn các 
hành vi bạo lực gia đình. Các hoạt động 
truyền thông vận động, giáo dục nâng 
cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân 
về tác hại của bạo lực gia đình, xử lý 
nghiêm khắc các vụ vi phạm đã góp 
phần quan trọng nhằm đẩy lùi tệ nạn 
bạo lực gia đình ở Việt Nam, nâng cao 
địa vị và vai trò người phụ nữ cũng như 
bảo vệ và chăm sóc phụ nữ trong gia 
đình và ngoài xã hội. 
Bước tiến quan trọng trong việc đấu 
tranh với bạo lực gia đình ở Việt Nam 
là Luật Bình đẳng giới được Quốc hội 
khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 
tháng 11 năm 2006. Luật quy định hành 
lang pháp lý cơ bản về thực hiện bình 
đẳng giới, là nền tảng cho việc phòng 
chống bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, 
Nâng cao nhận thức của thanh niên... 
 35
sự kiện đặc biệt quan trọng là Luật 
Phòng chống bạo lực gia đình được 
Quốc hội khóa XII thông qua tháng 11 
năm 2007 và Chủ tịch nước ký lệnh 
công bố ngày 5 tháng 12 năm 2007. 
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử pháp 
lý của nước Việt Nam, một văn bản 
pháp luật chuyên về phòng chống bạo 
lực gia đình được ban hành. 
Luật Phòng chống bạo lực gia đình 
quy định rõ thế nào là hành vi bạo lực 
gia đình, nguyên tắc phòng chống bạo 
lực gia đình, nghĩa vụ của người gây ra 
bạo lực gia đình, quyền và nghĩa vụ của 
nạn nhân bạo lực gia đình, những vấn đề 
về chính sách nhà nước về phòng chống 
bạo lực gia đình. Luật đã nhấn mạnh 
trước hết đến vấn đề phòng ngừa bạo 
lực gia đình thông qua các biện pháp 
thông tin tuyên truyền với những nội 
dung như chính sách, pháp luật về 
phòng chống bạo lực gia đình, bình 
đẳng giới, quyền và nghĩa vụ của các 
thành viên gia đình; truyền thống tốt đẹp 
của con người, gia đình Việt Nam; tác 
hại của bạo lực gia đình; biện pháp, mô 
hình, kinh nghiệm trong phòng, chống 
bạo lực gia đình; kiến thức về hôn nhân 
và gia đình; kỹ năng ứng xử, xây dựng 
gia đình văn hóa; và các nội dung khác 
liên quan đến phòng, chống bạo lực gia 
đình. Đồng thời, trong Luật đó cũng đã 
nêu một số hình thức thông tin, tuyên 
truyền thích hợp; những vấn đề như 
nguyên tắc và các biện pháp hòa giải 
mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành 
viên gia đình; việc tư vấn, góp ý phê 
bình trong cộng đồng dân cư về phòng 
ngừa bạo lực gia đình; các biện pháp 
bảo vệ và hỗ trợ các nạn nhân bạo lực 
gia đình cũng như những quy định về 
các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia 
đình. Luật Phòng chống bạo lực gia 
đình cũng đã quy định rõ về trách 
nhiệm của các cá nhân, gia đình, cơ 
quan, tổ chức trong việc phòng, chống 
bạo lực gia đình. Những quy định về xử 
lý vi phạm pháp luật về hành vi vi 
phạm pháp luật về phòng, chống bạo 
lực gia đình và khiếu nại, tố cáo cũng 
đã được nêu cụ thể trong Luật Phòng 
chống bạo lực gia đình. 
Cho đến nay, các Nghị định của Thủ 
tướng Chính phủ về quy định chi tiết và 
hướng dẫn thi hành một số điều của 
Luật Phòng chống bạo lực gia đình và 
Nghị định quy định về xử phạt hành 
chính trong lĩnh vực phòng chống bạo 
lực gia đình đã được ban hành. 
Các hoạt động xây dựng văn bản 
pháp luật nói trên thể hiện quyết tâm 
mạnh mẽ của Nhà nước Việt Nam trong 
việc phòng, chống bạo lực gia đình. 
Điều này có ý nghĩa lớn lao đối với việc 
nâng cao địa vị và vai trò cũng như bảo 
vệ và chăm sóc người phụ nữ. Hành 
lang pháp lý thuận lợi này sẽ tạo điều 
kiện để mở rộng và nâng cao hiệu lực 
của công tác phòng, chống bạo lực gia 
đình ở Việt Nam. 
2. Thực trạng bạo lực gia đình đối 
với phụ nữ 
Cho đến nay bạo lực trong gia đình 
đối với phụ nữ ở Việt Nam, đặc biệt tại 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 (72) - 2013 
 36
các vùng nông thôn, còn ở mức độ khá 
nghiêm trọng và thu hút sự quan tâm 
của toàn xã hội. Theo kết quả Điều tra 
gia đình Việt Nam 2006, có 21,2% các 
gia đình xảy ra một trong ba loại hành vi 
bạo lực gia đình trong 12 tháng trước 
cuộc điều tra: đánh; mắng, chửi và phải 
chấp nhận quan hệ tình dục khi không 
muốn. Theo cuộc điều tra SAVY 1 thì 
có 21% nữ thanh niên đã lập gia đình 
(14 đến 25 tuổi) cho biết, họ đã từng bị 
chồng chửi mắng; 12,8% nữ thanh niên 
đã từng bị chồng cấm đoán làm một việc 
gì đó; 5,8% đã từng bị chồng đánh đập. 
Nếu chúng ta quan tâm đến khoảng thời 
gian rất ngắn ngủi của cuộc sống vợ 
chồng từ khi kết hôn đến thời điểm khảo 
sát, chúng ta có thể hình dung mức độ 
nghiêm trọng của hành vi bạo lực đối 
với phụ nữ ở nước ta hiện nay. Còn theo 
cuộc điều tra về thực trạng bình đẳng 
giới năm 2004-2005 của Viện Khoa học 
xã hội Việt Nam thì có 21,2% phụ nữ 
cho biết đã từng bị chồng chửi trong 12 
tháng qua; 5,7% phụ nữ cho biết bị 
chồng đánh, như vậy tỷ lệ của thanh 
niên bị bạo lực cao không kém so với tỷ 
lệ chung. 
Điều đáng ngạc nhiên là sau 5 năm, 
khi tiến hành cuộc Điều tra SAVY 2 
(2008-2009), tỷ lệ nữ thanh niên bị 
chồng đánh đập hoàn toàn không giảm 
đi (5,8%, bằng đúng tỷ lệ của thời điểm 
2003). Và khi đo lường tỷ lệ phụ nữ bị 
chồng đánh đập trong 12 tháng trước 
cuộc khảo sát (đúng trong thời gian Luật 
Phòng chống bạo lực gia đình bắt đầu có 
hiệu lực) thì vẫn còn có 3,9% thừa nhận 
có hiện tượng chồng đánh vợ, trong đó 
tỷ lệ người vợ thừa nhận là cao hơn so 
với người chồng (4,8% so với 2,2%). 
Những kết quả này không khác với phát 
hiện ở điều tra SAVY 1 và Điều tra gia 
đình Việt Nam năm 2006. Tỷ lệ người 
vợ bị chồng đánh đập trong những thanh 
niên mới lập gia đình không thay đổi 
sau 5 năm khảo sát; điều đó cho thấy 
những khó khăn trong việc giải quyết 
vấn nạn bạo lực gia đình. 
Số liệu Điều tra quốc gia về bạo lực 
gia đình đối với phụ nữ 2010 (đối với 
4828 phụ nữ tuổi 18-60) cũng xác nhận: 
có 58,3% phụ nữ tham gia khảo sát đã 
trải qua ít nhất một hình thức bạo hành 
về thể chất, tinh thần, hoặc tình dục; 
27% đã trải qua ít nhất một hình thức 
bạo lực trong vòng 12 tháng trở lại. Có 
32% phụ nữ có chồng cho biết, họ từng 
trải qua bạo lực về thể chất; 6% trong số 
đó trải qua bạo lực trong vòng 12 tháng 
trở lại. 
Các số liệu trên chỉ ra một thực tế là, 
có nhiều vụ bạo lực gia đình vẫn diễn ra 
âm thầm đằng sau cánh cửa gia đình, 
trong khi sự can thiệp của Nhà nước và 
các tổ chức xã hội hãy còn quá hạn chế. 
Gắn với các hành vi bạo lực gia đình 
nghiêm trọng đối với phụ nữ là tỷ lệ 
người có nhận thức đúng về các hành vi 
bạo lực gia đình không cao, trong đó có 
cả thanh niên. 
Nhiều người quan niệm rằng, chỉ có 
"những lạm dụng một cách có hệ thống 
và nghiêm trọng chống lại phụ nữ làm 
Nâng cao nhận thức của thanh niên... 
 37
tổn hại đáng kể đến quan hệ vợ chồng 
mới được người được hỏi coi là bạo 
lực." Nếu người đàn ông đối xử tệ với 
vợ mình nhưng chỉ có tính nhất thời và 
không gây hậu quả nghiêm trọng thì sẽ 
được coi là hành động không mong 
muốn nhưng không nhất thiết là bạo lực. 
Còn nếu người vợ có lỗi thì hành động 
bạo lực của người chồng, mặc dù không 
phải là điều mong muốn, vẫn được coi 
là "có thể biện minh được". 
Một nghịch lý là, một số loại hành vi 
bạo lực trong gia đình được nhiều tầng 
lớp xã hội (kể cả phụ nữ) coi là có thể 
chấp nhận được. Chẳng hạn, trong cuộc 
khảo sát của Hội liên hiệp phụ nữ Việt 
Nam năm 2001, nhiều người coi các 
hành vi bạo lực là “có thể chấp nhận 
được trong cuộc sống gia đình”. Tỷ lệ ý 
kiến chấp nhận mắng chửi là: 45% nữ 
và 45,1% nam; tát: 7,9% nữ và 8,4% 
nam; xỉ vả: 4,6% nữ và 6,2% nam; cấm 
đoán quan hệ với mọi người: 3,8% nữ 
và 4,3% nam. Cũng như vậy, tỷ lệ nam 
nữ chấp nhận đấm đá hay đánh bằng roi 
gậy và cưỡng ép quan hệ tình dục vẫn 
còn, mặc dù chiếm tỷ lệ thấp hơn. 
Cuộc khảo sát của Hội liên hiệp phụ 
nữ Việt Nam (2001) đã có các phát hiện 
rất đáng lưu ý về một tỷ lệ khá lớn ý 
kiến chấp nhận các hành vi đánh hoặc 
mắng chửi vợ trong cuộc sống gia đình 
nếu vợ mắc một số “lỗi”: Chồng có thể 
mắng chửi khi người vợ: "làm trái ý 
chồng" (51,3%); "không chăm sóc 
chồng con" (50,2%); "hỗn láo với 
chồng" (46,0%); "ăn tiêu hoang phí" 
(44,6%); "lười biếng" (40,1%); "không 
biết làm ăn" (32,8%)... Điều ngạc nhiên 
hơn là, tỷ lệ phụ nữ chấp nhận những 
hình phạt đối với họ khi “mắc lỗi” theo 
quan niệm thông thường, ngay cả việc 
“từ chối quan hệ tình dục” lại cao hơn 
nam giới! Một nạn nhân nữ ở Tiền 
Giang phát biểu: "vợ láo thì chồng có 
quyền đánh, bình thường thì làm gì có 
quyền đánh vợ”. 
Kết quả nghiên cứu của Vụ Gia đình 
và Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới 
gần đây (2012) cho thấy, một tỷ lệ 
không nhỏ người dân thậm chí đồng ý 
rằng, chỉ cần “không nghe lời chồng”, 
không cần biết là ý kiến của chồng đúng 
hay sai, là có thể có hành vi bạo lực của 
chồng đối với vợ. 
Chính quan niệm của người phụ nữ 
và những người có trách nhiệm giúp đỡ 
họ như vậy đã kéo dài tình trạng “sống 
chung với bạo lực” của phụ nữ. 
3. Những yếu tố có liên quan đến 
việc duy trì các hành vi bạo lực gia 
đình đối với phụ nữ 
Các nghiên cứu đã chỉ ra nhiều yếu tố 
có liên quan đến việc duy trì các hành vi 
bạo lực gia đình đối với phụ nữ, từ cấp 
độ cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã 
hội. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh đến hai 
yếu tố, đó là định kiến giới và tình trạng 
say rượu/bia. 
Trước hết, cần phải khẳng định rằng, 
gốc rễ của nạn bạo lực trên cơ sở giới là 
sự bất bình đẳng trong các quan hệ giới. 
Một số quan niệm truyền thống mang 
đậm định kiến về giới đã thấm sâu vào 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 (72) - 2013 
 38
tiềm thức các thế hệ ở Việt Nam. Quan 
niệm “Chồng chúa vợ tôi” và “Thuyết 
tam tòng” gán cho người chồng toàn 
quyền định đoạt mọi công việc lớn trong 
gia đình. Người vợ chỉ là người thừa 
hành, có bổn phận phục vụ chồng con. 
Trong nhiều trường hợp, người chồng 
đã dùng bạo lực để duy trì quyền này. 
Khi không giải quyết được bất đồng ý 
kiến bằng đối thoại về các vấn đề như 
phân công lao động, sử dụng nguồn lực 
gia đình, sinh đẻ và nuôi dạy con, v.v., 
thì nhiều người chồng thường dùng vũ 
lực để làm theo ý của mình. 
Bất bình đẳng giới thể hiện đặc biệt 
rõ ở định kiến “Nhất nam viết hữu, thập 
nữ viết vô” (một con trai cũng được coi 
là có, mười con gái cũng như không). 
Đây là sự đề cao tột đỉnh giá trị của con 
trai và hạ thấp giá trị của con gái. Việc 
vợ chồng không có con trai cũng có thể 
là lý do để người chồng gây sự với vợ. 
Trong năm 1996 các tòa án địa phương 
đã xét xử 49.711 vụ ly hôn, trong đó có 
18% là do không có con trai. 
Trong những năm qua, Chính phủ đã 
có nhiều nỗ lực nhằm hạn chế tình trạng 
phân biệt đối xử con trai với con gái. 
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã 
quy định Nhà nước và xã hội không 
thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các 
con, giữa con trai và con gái (M ... ng 
suốt cả cuộc đời. Gia đình không còn là 
tổ ấm hạnh phúc mà trở thành “địa 
ngục”. Những thành viên của gia đình 
có nhà mà không có mái ấm, như những 
người “không gia đình”. 
Như vậy, bạo lực gia đình đang khiến 
người phụ nữ chịu nhiều tổn thương về 
thể chất và tinh thần, không chỉ ở hiện 
tại mà còn những di chứng sau này. 
Ngoài ra, nó cũng là tác nhân làm rạn 
nứt mối quan hệ vợ chồng cũng như sự 
ổn định, phát triển của mỗi gia đình. 
Thứ ba, ảnh hưởng tới sự phát triển 
nhân cách của trẻ 
Nâng cao nhận thức của thanh niên... 
 41
Trong số các rủi ro mà trẻ em có thể 
mắc phải thì bạo lực gia đình là khó 
khắc phục hơn, bởi tính phụ thuộc đặc 
biệt của trẻ em với người lớn và bởi lẽ 
bạo lực gia đình không chỉ ảnh hưởng 
tới hiện tại mà còn ảnh hưởng đến tương 
lai lâu dài của trẻ. 
Trẻ nhỏ có thể là mục tiêu trực tiếp 
của bạo lực thân thể hoặc có thể bị 
thương khi cố gắng bảo vệ các thành 
viên khác trong gia đình (thường là 
người mẹ) hoặc cố gắng ngăn cản hành 
vi bạo lực của bố mẹ. Có thể chúng chỉ 
là người chứng kiến cảnh người thân có 
những hành động xô xát, thô bạo. 
Những hình ảnh bạo lực gia đình mà trẻ 
em phải chứng kiến, cho dù chúng 
không phải là nạn nhân trực tiếp, cũng 
có thể in sâu vĩnh viễn và gây ra những 
ảnh hưởng tiêu cực nặng nề trong suốt 
thời thơ ấu cũng như cuộc sống sau này 
của trẻ. 
Nhiều học giả đã chỉ ra mối quan hệ 
sâu sắc giữa bạo lực gia đình và sự thờ 
ơ, bỏ bễ của gia đình với việc chăm sóc 
trẻ nhỏ. Đồng thời, khi phải chịu đựng 
hoặc chứng kiến cảnh bạo lực gia đình, 
những đứa trẻ không còn tìm thấy tình 
yêu thương trong gia đình và có xu 
hướng xa lánh người thân, gia đình và 
mặc cảm với bạn bè, hàng xóm. Điều 
này khiến những đứa trẻ trở nên lầm lì, 
ít nói, không muốn tiếp xúc với bên 
ngoài, nhút nhát, rụt rè, tự ti, v.v.. 
Nỗi phiền muộn vì không được quan 
tâm chăm sóc cũng như chứng kiến cảnh 
cha mẹ không yêu thương nhau khiến 
đứa trẻ trở nên buồn chán và bỏ bễ việc 
học hành, dễ tiếp xúc với những ảnh 
hưởng tiêu cực của xã hội hoặc trở 
thành nạn nhân của các tệ nạn xã hội. 
Gần đây báo chí nước ta nói nhiều đến 
tội phạm "nhí" mà hành động của chúng 
khủng khiếp không thua kém gì các 
băng đảng người lớn; chúng cũng có dao 
găm, mã tấu, cũng đâm chém và giết 
người. Nhiều phạm nhân nhỏ tuổi này 
lớn lên từ những gia đình không hoà 
thuận và quen phải nhìn thấy những 
cảnh bạo lực không chỉ trong phim ảnh 
mà chính trong gia đình của chúng. Việc 
dùng bạo lực với con cái hoặc để con cái 
chứng kiến những hành vi bạo lực là 
đồng nghĩa với việc dạy dỗ, tập cho 
chúng quen dần với việc dùng bạo lực 
đối với người khác. 
Thứ tư, tác động tiêu cực tới sự ổn 
định của cộng đồng 
Bạo lực gia đình không chỉ là “cơn ác 
mộng” với các thành viên trong gia đình 
mà còn ảnh hưởng tới an ninh, trật tự của 
cộng đồng. Những lời cãi vã, mắng chửi 
và tiếng đánh đập vọng sang từ nhà bên 
có ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống 
những người hàng xóm, dường như 
chính họ cũng đang gián tiếp chịu bạo 
lực gia đình. Đó là còn chưa kể đến 
những tác động tiêu cực tới con cái họ 
khi chứng kiến những hành động bạo lực 
trong quá trình hình thành và phát triển 
nhân cách. Không ít trường hợp những 
người cùng làng cùng xóm khi can ngăn 
bạo lực gia đình thì lại trở thành nạn 
nhân của chính nạn bạo hành này. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 (72) - 2013 
 42
Hiện nay, bạo lực gia đình vẫn đang 
là thách thức lớn đối với những cố gắng 
của cả cộng đồng. Hàng ngày, hàng giờ 
có không ít phụ nữ, trẻ em bị chính 
người chồng, người cha của mình sử 
dụng các hành vi bạo lực, đẩy họ vào 
con đường cùng quẫn và tương lai trở 
nên mù mịt. 
Thứ năm, làm tăng chi phí xã hội 
Ở quy mô toàn xã hội, ước tính thiệt 
hại do bạo lực gia đình đối với phụ nữ 
gây ra tại Việt Nam (ước tính chi phí cơ 
hội bao gồm cả chi phí trực tiếp lẫn thiệt 
hại về thu nhập và giá trị kinh tế của các 
công việc gia đình bị mất) là tương 
đương 1,41% GDP. Ngoài ra, bạo lực 
gia đình do chồng/bạn tình gây ra đối 
với phụ nữ có ảnh hưởng lớn đến thu 
nhập, thể hiện qua tác động của nó lên 
năng suất lao động. Số liệu khảo sát tại 
7 tỉnh/thành phố Việt Nam về ước tính 
thiệt hại kinh tế do bạo lực gia đình gây 
ra đối với phụ nữ cho thấy, khi các yếu tố 
giáo dục, tài sản, độ tuổi là như nhau, thì 
bạo lực làm giảm sút tới 35% thu nhập. 
Khả năng thiệt hại về năng suất lao động 
được ước tính ở mức 1,78% GDP. 
Như vậy, hậu quả của bạo lực gia 
đình không chỉ tác động tiêu cực tới một 
cá nhân, một gia đình cụ thể nào, mà có 
thể trở thành một vấn nạn, đặc biệt đối 
với phụ nữ và trẻ em và hệ luỵ tới cả xã 
hội và cộng đồng. Nó không chỉ ảnh 
hưởng tới những người trực tiếp hứng 
chịu bạo lực mà còn để lại hậu quả cho 
cả những thế hệ mai sau. Đấu tranh 
phòng chống bạo lực gia đình là một 
nhiệm vụ cấp bách hiện nay. 
5. Sự tham gia của thanh niên vào 
việc phòng chống bạo lực gia đình 
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, 
một trong những nhân tố quan trọng 
quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc. 
Sự tham gia của thanh niên vào công 
cuộc đấu tranh chống lại các hành vi bạo 
lực gia đình đối với phụ nữ có ý nghĩa 
rất lớn. Trong vấn đề này, việc nâng cao 
nhận thức của thanh niên và từ đó làm 
chuyển biến hành vi của thanh niên có 
vai trò rất quan trọng. Từ những phân 
tích ở trên có thể nói, thanh niên cần: 
Thứ nhất, có quan niệm đúng đắn về 
bình đẳng giới. Như phân tích ở phần 
trên đã nêu rõ, gốc rễ của các hành vi 
bạo lực gia đình là định kiến giới, quan 
niệm “chồng chúa, vợ tôi”, “trọng nam 
khinh nữ”, người chồng có quyền muốn 
làm gì với vợ cũng được. Chính vì vậy, 
trước hết mỗi thanh niên phải tự xác 
định cho bản thân mình một nhận thức 
đúng đắn về bình đẳng giới, coi nam và 
nữ có quyền bình đẳng cả trong những 
công việc gia đình và ngoài xã hội, 
không có sự phân biệt con trai hay con 
gái. Đọc, nắm vững Luật Bình đẳng 
giới, góp phần tuyên truyền cho những 
bạn thanh niên khác hiểu rõ hơn về bình 
đẳng giới là một nhiệm vụ cần thiết của 
thanh niên hiện nay. 
Thứ hai, có hiểu biết rõ ràng về các 
hành vi bạo lực gia đình và các biện 
pháp nhằm phòng chống bạo lực gia 
đình. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, 
một bộ phận không nhỏ người dân, đặc 
Nâng cao nhận thức của thanh niên... 
 43
biệt là người dân ở nông thôn, vùng sâu 
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu 
số, người có học vấn thấp, người lao 
động tự do, người di cư lao động, người 
nghèo chưa có hiểu biết đầy đủ về 
BLGĐ và Luật Phòng chống bạo lực gia 
đình (PCBLGĐ). Cụ thể, đối với nhiều 
người, chỉ những hành vi đánh đập giữa 
các thành viên gia đình gây ra thương 
tích mới được coi là BLGĐ; còn các 
hành vi chửi mắng, sỉ nhục, cưỡng bức 
tình dục, không chăm lo đời sống vật 
chất, tinh thần của cha mẹ già, chồng tát 
vợ, cha mẹ đánh con được coi là bình 
thường, không phải là BLGĐ. Điều này 
dẫn đến tình trạng, hầu hết các hình thức 
bạo lực ở dạng nhẹ vẫn tồn tại và không 
được xử lý. Hơn thế nữa, ngay cả các 
hành vi bạo lực gây thương tích trong 
nhiều trường hợp cũng không được xử 
lý nghiêm, do vẫn còn quan niệm khá 
phổ biến của người dân và của cán bộ 
coi đó là việc riêng của gia đình. Kết 
quả là, không ít các hành vi bạo lực gây 
thương tích (chủ yếu là bạo lực của 
chồng đối với vợ) đã không được tố cáo, 
bị che dấu. 
Nếu thanh niên không thay đổi một 
cách căn bản nhận thức về BLGĐ và 
hiểu rõ về LPCBLGĐ thì khó có thể 
tham gia tích cực và có hiệu quả vào 
việc ngăn chặn BLGĐ. Cần xác định 
được các hình thức bạo lực gia đình; coi 
phòng chống bạo lực gia đình không 
phải là việc riêng của mỗi gia đình; học 
tập cách cư xử hòa thuận trong gia đình; 
đồng thời cần hiểu rõ tác hại to lớn của 
việc say rượu/bia đối với việc phá vỡ 
hạnh phúc gia đình, từ đó tạo nên sự 
chuyển biến về hành vi. 
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 
đã xác định cụ thể các hành vi bạo lực 
gia đình và yêu cầu sự tham gia của toàn 
xã hội trong việc phòng chống bạo lực 
gia đình. Vì vậy, thanh niên cần phải 
học tập, nắm vững những quy định ở Bộ 
luật này để nâng cao hiểu biết của bản 
thân và góp phần giúp những thanh niên 
khác có nhận thức tốt hơn về phòng 
chống bạo lực gia đình. 
Thứ ba, tham gia vào các hoạt động 
phòng chống bạo lực gia đình. Cùng với 
việc nâng cao nhận thức, thanh niên cần 
tích cực tham gia vào các hành động 
phòng chống bạo lực gia đình, trước hết 
từ môi trường gia đình và sau nữa là 
trong cộng đồng. Trong cuộc sống vợ-
chồng, người thanh niên cần thể hiện 
cách cư xử hòa thuận, tôn trọng lẫn nhau 
và học tập những kỹ năng cần thiết giải 
quyết xung đột vợ-chồng. Ở gia đình, 
thanh niên có thể tham gia vào việc làm 
thay đổi nhận thức và hành vi của các 
thành viên trong gia đình, đặc biệt là 
người bố và người mẹ. Nhiều nghiên 
cứu đã chỉ ra rằng, con cái có vai trò 
quan trọng trong việc làm cầu nối để 
ngăn chặn bạo lực của cha đối với mẹ, 
cũng như hàn gắn mối quan hệ giữa hai 
người. Thanh niên cũng là đối tượng có 
học vấn cao hơn, có điều kiện hơn trong 
việc tiếp nhận kiến thức về vấn đề này, 
vì vậy cần có tác động đến bố và mẹ. 
Sự tham gia của thanh niên vào các 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 (72) - 2013 
 44
cuộc vận động nâng cao nhận thức 
chung của thành viên cộng đồng về 
phòng chống bạo lực gia đình là rất 
quan trọng. Thực tế cho thấy, truyền 
thông trực tiếp có ý nghĩa rất quan trọng 
đối với việc nâng cao nhận thức về 
phòng chống bạo lực gia đình của người 
dân, đặc biệt là người dân các vùng sâu, 
vùng xa, người dân tộc ít người. Thanh 
niên cần tham gia tích cực vào các hoạt 
động truyền thông này, thông qua các 
nhóm bạn của mình cũng như các hình 
thức khác như sinh hoạt câu lạc bộ, các 
buổi sinh hoạt cộng đồng, giúp người 
dân hiểu rõ bạo lực gia đình không phải 
là vấn đề riêng của mỗi gia đình; biết 
cách nhận dạng các hành vi bạo lực gia 
đình, các biện pháp phòng ngừa, can 
thiệp khi cần thiết, những nơi có thể tìm 
đến tư vấn khi có hành vi bạo lực xảy ra, 
cũng như hiểu được quyền và trách 
nhiệm của mình trong gia đình và ngoài 
xã hội. 
Ngoài ra, việc tham gia tích cực vào 
các hoạt động phát hiện sớm hành vi 
bạo lực gia đình và can thiệp tích cực 
chống lại các hành vi bạo lực gia đình 
(mạng lưới cộng đồng phát hiện tội 
phạm, các đội can thiệp nhanh, v.v.) có 
ý nghĩa hết sức quan trọng. Để làm tốt 
những vấn đề này, thanh niên cần quan 
tâm nâng cao kiến thức và kỹ năng 
phòng, chống bạo lực gia đình để có thể 
giúp đỡ nạn nhân một cách có hiệu quả 
nhất. Đấu tranh với các hiện tượng như 
say rượu, nghiện hút và các tệ nạn xã 
hội khác chính là giúp tạo nên một môi 
trường xã hội lành mạnh và ổn định, 
đồng thời gián tiếp phòng chống các 
hành vi bạo lực. 
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ vẫn 
tiếp tục diễn ra trong các loại gia đình 
khác nhau và ở mọi tầng lớp, mọi vùng 
miền ở Việt Nam. Mặc dù đã được sự 
quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà 
nước, nhưng quá trình đấu tranh phòng 
chống bạo lực gia đình đang gặp nhiều 
thách thức. Cùng với các tầng lớp xã 
hội khác, thanh niên cần nâng cao nhận 
thức và tham gia tích cực vào công 
cuộc đấu tranh này, nhằm giúp cho việc 
phòng chống bạo lực gia đình đạt hiệu 
quả cao hơn. 
Tài liệu tham khảo 
1. Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê, WHO, 
UNICEF (2005), Điều tra quốc gia về vị thành 
niên và thanh niên Việt Nam. Tác giả tự tính 
toán từ số liệu gốc. 
2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch/ 
TCTK/UNICEF/Viện Gia đình và Giới (2008), 
Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, 
Hà Nội, 6/2008. 
3. CHXHCN Việt Nam (1999), Báo cáo 
quốc gia lần thứ hai về tình hình thực hiện công 
ước Liên hiệp quốc xóa bỏ mọi hình thức phân 
biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Nxb Phụ nữ. 
4. Hội đồng dân số (5/2002), Ngăn chặn bạo 
hành trong gia đình: phổ biến tài liệu hướng 
dẫn tư vấn chống bạo hành cho các cộng đồng 
nông thôn. 
5. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Trung 
tâm Nghiên cứu Thị trường và Phát triển 
(2001), Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt 
Nâng cao nhận thức của thanh niên... 
 45
Nam: kết quả nghiên cứu tại Thái Bình, Lạng 
Sơn, Tiền Giang, Báo cáo. 
6. Jill Astbury (2000), The impact of 
domestic violence on individuals. 
7. Le Thi Phuong Mai and Lucinda 
Willshire (2000), Report on an intervention 
project: training on domestic violence, sexual 
abuse and reproductive health counseling for 
the Hanoi hotline. 
8. Lê Thị Quý (1999), “Bạo lực gia đình và 
ảnh hưởng của nó đến việc hình thành nhân 
cách của trẻ em”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ 
số 4/1999, tr. 31-37. 
9. Nata Duvvury, Nguyễn Hữu Minh và 
Patricia Carney (2012), Báo cáo hoàn thiện về 
ước tính thiệt hại kinh tế do bạo lực gia đình 
đối với phụ nữ tại Việt Nam. 
10. Nguyễn Hữu Minh và Trần Thị Hồng 
(2011), “Thái độ của thanh thiếu niên Việt Nam 
về hôn nhân và gia đình”, Tạp chí Nghiên cứu 
Gia đình và Giới, số 4/2011, tr. 3-14. 
11. Nguyễn Hữu Minh và Trần Thị Vân Anh 
(chủ biên) (2009), Bạo lực gia đình đối với phụ 
nữ ở Việt Nam - Thực trạng, Diễn tiến và 
Nguyên nhân, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
12. Nguyễn Thị Hoài Đức (2001), Domestic 
violence against women and attitudes, practices 
of health workers: case studies in Hanoi and 
Ninhbinh provinces, RaFH/New Zealand Embassy, 
Hanoi. 
13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992. 
14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam (1992), Luật Tổ chức Chính 
phủ 1992. 
15. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam (1999), Luật Hình sự 1999. 
16. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam (2006), Luật Bình đẳng giới 2006. 
17. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam (2007), Luật Phòng chống bạo 
lực gia đình 2007. 
18. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chiến lược 
xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010. 
19. Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia 
đình, Tổng cục Thống kê và Ngân hàng phát 
triển châu Á 2010, Điều tra quốc gia về vị 
thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ 2 
(SAVY 2). 
20. Tổng cục Thống kê (2010), “Chịu nhịn 
là chết đấy”: Kết quả nghiên cứu quốc gia về 
bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam. 
21. Trần Thị Vân Anh, (2005), Vấn đề giới 
qua kết quả sơ bộ của cuộc khảo sát 2005, 
Trình bày tại Hội thảo Tham vấn về giới và kế 
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Đại Lải, Vĩnh 
Phúc 8/2005. 
22. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em 
(2004), Thực trạng nhận thức về bạo lực và bạo 
lực gia đình trong gia đình tại Đông Nam Bộ. 
23. Viện Gia đình và Giới (2007), Báo cáo 
phân tích số liệu 3 cuộc Điều tra về Bạo lực 
trên cơ sở giới. 
24. Vụ Gia đình và Viện Gia đình và Giới 
(2012), Điều tra thực trạng bạo lực gia đình, đề 
xuất giải pháp có tính đột phá nhằm giảm thiểu 
bạo lực gia đình trong năm 2012 và giai đoạn 
2012 - 2016. 
25. Vũ Mạnh Lợi, Vũ Tuấn Huy, Nguyễn 
Hữu Minh và Jennifer Clement (1999), Bạo lực 
trên cơ sở giới: Trường hợp Việt Nam, Ngân 
hàng thế giới. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 (72) - 2013 
 46

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_nhan_thuc_cua_thanh_nien_ve_phong_chong_bao_luc_gia.pdf