Phân tích tác động trái chiều của các khu công nghiệp đến kinh tế - xã hội ở Việt Nam

TÓM TẮT

Hơn hai mươi năm qua, sự phát triển các khu công nghiệp (KCN) đã góp phần quan trọng

vào việc làm thay đổi căn bản diện mạo và cơ cấu của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, từng bước đưa đất nước hướng

tới mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 theo hướng hiện đại. Đời sống

kinh tế xã hội của Việt Nam được cải thiện rõ rệt, vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập đã

có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, đối lập với bức tranh toàn cảnh ấy thì những tác động

trái chiều của các KCN đối với kinh tế - xã hội cũng đặt ra nhiều vấn đề quan trọng cần phải khắc

phục để phát triển bền vững. Bài viết này sẽ góp phần nhận diện những tác động trái chiều, từ đó đề

xuất những kiến nghị, giải pháp khắc phục để hướng các KCN phát triển đáp ứng với yêu cầu của

sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

pdf 8 trang yennguyen 2800
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích tác động trái chiều của các khu công nghiệp đến kinh tế - xã hội ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích tác động trái chiều của các khu công nghiệp đến kinh tế - xã hội ở Việt Nam

Phân tích tác động trái chiều của các khu công nghiệp đến kinh tế - xã hội ở Việt Nam
107
Phân tích tác động . . .
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG TRÁI CHIỀU CỦA CÁC KHU 
CÔNG NGHIỆP ĐẾN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
 Phạm Nguyễn Ngọc Anh* 
TÓM TẮT
Hơn hai mươi năm qua, sự phát triển các khu công nghiệp (KCN) đã góp phần quan trọng 
vào việc làm thay đổi căn bản diện mạo và cơ cấu của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, từng bước đưa đất nước hướng 
tới mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 theo hướng hiện đại. Đời sống 
kinh tế xã hội của Việt Nam được cải thiện rõ rệt, vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập đã 
có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, đối lập với bức tranh toàn cảnh ấy thì những tác động 
trái chiều của các KCN đối với kinh tế - xã hội cũng đặt ra nhiều vấn đề quan trọng cần phải khắc 
phục để phát triển bền vững. Bài viết này sẽ góp phần nhận diện những tác động trái chiều, từ đó đề 
xuất những kiến nghị, giải pháp khắc phục để hướng các KCN phát triển đáp ứng với yêu cầu của 
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Từ khóa: Tác động, trái chiều, khu công nghiệp, kinh tế - xã hội. 
ANALYSING COUNTER – EFFECTS OF INDUSTRIAL PARKS ON THE 
SOCIO – ECONOMIC DEVELOPMENT IN VIETNAM
ABSTRACT
Over twenty years, the development of industrial parks have contributed significantly 
to alter the fundamental and structural aspects of the economy, to accelerate the process of 
industrialization and modernization, building material and technical base, gradually move the 
country towards the goal of 2020 basically become an industrialized country toward modernization. 
Economic and social life of Vietnam is markedly improved, problems to create jobs, raise incomes 
have made positive changes. However, opposition to the overall picture was mixed, the impact of 
the industrial park for social economy raises many important issues need to be overcome for the 
development and sustainable development. This article will help identify these adverse effects, since 
it proposed recommendations and solutions to guide the development of industrial zones to meet the 
requirements of industrialization and modernization.
Keywords: counter-effects, industrial parks, socio-economic.
* ThS. Trường Đại học Ngô Quyền, Bộ Quốc phòng. NCS . Kinh tế Chính trị, trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
108
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. Giới thiệu
Kể từ khi Khu chế xuất Tân Thuận, Thành 
phố Hồ Chí Minh được thành lập năm 1991 
đến nay số lượng KCN trên cả nước phát triển 
nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. 
Tính đến hết năm 2014, cả nước hiện có 295 
KCN được thành lập trên tổng số 461 KCN có 
trong quy hoạch với tổng diện tích đất tự nhiên 
82,8 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp có thể 
cho thuê đạt 55,7 nghìn ha (chiếm khoảng 67% 
tổng diện tích đất tự nhiên); Trong 295 KCN đã 
được thành lập có 208 KCN đang hoạt động và 
87 KCN đang đền bù, giải phóng mặt bằng và 
xây dựng cơ sở hạ tầng. Các KCN đã thu hút 
được 5.325 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng 
ký 79,4 tỷ USD và 5.262 dự án đầu tư trong 
nước với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 25,6 tỷ 
USD. Các dự án đầu tư trong KCN đã tạo việc 
làm cho trên 2,25 triệu lao động trực tiếp, tỷ lệ 
lấp đầy các KCN đi vào hoạt động đạt 65%.30
Thực tế sự phát triển của KCN đã trở 
thành nguồn lực thúc đẩy quá trình CNH, 
HĐH đất nước, góp phần tích cực trong việc 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện mục tiêu 
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công 
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. 
Để có được các thành quả này, trước hết, phải 
kể đến sự chỉ đạo sát sao của chính phủ, đặc 
biệt là với sự ra đời của Nghị định 29/2008/
NĐ-CP, ban hành các chính sách phát triển 
KCN; tiếp đến là sự nỗ lực của chính quyền 
địa phương và cộng đồng doanh nghiệp trong 
và ngoài nước, tham gia hoạt động trên từng 
địa bàn. Tuy nhiên, sau hơn 20 năm hình 
thành và phát triển, đặc biệt là trong khoảng 
thời gian 5 năm trở lại đây, với quy mô phát 
triển rộng theo phương châm “trăm hoa đua 
nở”, mô hình phát triển của các khu/cụm công 
nghiệp cũng đã trở thành tâm điểm của nhiều 
30 
aspx?idTin=26801&idcm=207
cuộc tranh luận sôi động, bàn về nhiều vấn đề 
khác nhau: về hiệu quả kinh tế - xã hội, về tác 
động đến các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế của 
mỗi địa phương, đến an ninh lương thực quốc 
giaNổi bật lên trong số đó là các chủ đề liên 
quan đến tác động của các KCN tới sự phát 
triển kinh tế xã hội của các địa phương. Rõ 
ràng, về mặt phương pháp luận sự tác động bao 
giờ cũng diễn ra theo hai mặt: thuận chiều, trái 
chiều hay tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực, 
nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra KCN góp 
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng 
hiện đại, tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc 
làm, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, cải thiện 
và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, 
thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời 
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bổ 
sung nguồn thu ngân sách cho các địa phương 
và của quốc gia...Chúng ta không thể phủ nhận 
vai trò của các KCN trong quá trình phát triển, 
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội song 
cũng nhìn nhận khách quan rằng chính các 
KCN cũng mang lại những hệ lụy kinh tế - xã 
hội nhất định. 
2. Phân tích những tác động trái chiều 
của các khu công nghiệp đến kinh tế - xã hội
2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Nguồn số liệu mà tác giả sử dụng để phân 
tích chủ yếu là số liệu thứ cấp, bao gồm thông 
tin khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công 
nghệ cao, khu kinh tế được khai thác ở Cổng 
thông tin điện tử, Bộ Kế hoạch và Đầu tư31. 
Bên cạnh đó, tác giả đã kế thừa kết quả của các 
nghiên cứu được trình bày ở các công trình từ 
[1] đến [7], phần Tài liệu tham khảo, trong đó 
có 3 công trình nghiên cứu của riêng tác giả đã 
được công bố trên các tạp chí kinh tế và sách 
tham khảo. Nguồn số liệu này đáng tin cậy để 
phân tích, nhất là phân tích những tác động trái 
chiều đáp ứng được mục tiêu của bài viết.
31 Địa chỉ: 
109
Phân tích tác động . . .
2.2. Phương pháp phân tích
Bài viết dựa trên phương pháp luận Duy 
vật biện chứng và Duy vật lịch sử, phương 
pháp trừu tượng hóa khoa học, cụ thể dựa trên 
những nguyên lý, quy luật, phương pháp tiếp 
cận như: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến; 
nguyên lý về sự phát triển; phép phân tích mâu 
thuẫn; phép trừu tượng hóa khoa học; phương 
pháp phân tích lịch sử thống nhất với logic; 
phương pháp tiếp cận hệ thống; phương pháp 
tiếp cận liên ngànhĐể có được những nhận 
định, kết luận tác giả đã sử dụng các phương 
pháp phân tích quen thuộc như: thống kê, mô 
tả; quy nạp, diễn giải; phân tích, tổng hợp.
2.3. Kết quả phân tích tác động trái chiều 
của các khu công nghiệp đến kinh tế - xã hội
Thứ nhất, vấn đề cơ cấu kinh tế theo 
hướng CNH, HĐH bộc lộ những bất cập
Rõ ràng, phát triển các KCN là một 
phương thức nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu CNH, 
HĐH, để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 
nước ta cơ bản là một nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình 
phát triển đã xuất hiện tình trạng mất cân đối 
trong cơ cấu kinh tế. 
(i) Về cơ cấu ngành:
Trong các KCN về cơ bản phải giải quyết 
mối quan hệ giữa lợi ích của địa phương nhận 
đầu tư và nhà đầu tư. Thực tế, quan hệ lợi ích 
này không phải lúc nào cũng thống nhất với 
nhau. Rõ ràng, các nhà đầu tư với mục đích 
cao nhất là lợi nhuận tối đa do đó những ngành, 
lĩnh vực, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao được 
các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, 
những lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân 
sinh nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng 
cho nhà đầu tư thì chắc chắn sẽ thu hút được 
rất ít vào các KCN. Từ đó cơ cấu ngành kinh 
tế nảy sinh sự mất cân đối. Mặc dù thu hút đầu 
tư vào KCN được tăng lên hàng năm nhưng 
chủ yếu lại là lĩnh vực gia công, chế biến trong 
khi đó sự phát triển của hệ thống công nghiệp 
phụ trợ theo mong muốn ban đầu của các địa 
phương thì gặp nhiều khó khăn, ngành dịch vụ 
tuy phát triển nhưng chủ yếu cũng tập trung 
vào xây dựng và kinh doanh bất động sản
Điều đáng chú ý là các dự án bất động sản có 
tỷ lệ giải ngân thấp, chỉ dưới 50% và thường 
nhà đầu tư chỉ bỏ ra số vốn ban đầu sau đó 
dùng những biện pháp khác nhau để kêu gọi 
nguồn vốn theo cách “lấy mỡ nó rán nó”. Thị 
trường bất động sản của Việt Nam vì thế cũng 
trở nên “điên đảo” và “vật vờ” nhất trong tất cả 
các loại thị trường. 
 (ii) Về cơ cấu vùng
Các dự án phát triển KCN trải rộng trên 
cả nước nhưng lại tập trung chủ yếu tại các 
địa bàn trọng điểm, có lợi thế như Vùng kinh 
tế trọng điểm phía Nam: Thành phố Hồ Chí 
Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng 
Tàu..; Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc: Hà 
Nội, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Bắc Ninh,Thái 
Nguyên; Ngược lại những vùng có điều kiện 
hạ tầng thấp, chính sách, thủ tục đầu tư còn 
“nhiêu khê” thì rất khó thu hút các dự án đầu 
tư. Chênh lệch về đầu tư vốn giữa các ngành, 
vùng, đã, đang và sẽ tạo ra những khoảng cách 
ngày càng lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã 
hội giữa các vùng, miền, các địa phương, làm 
gia tăng khoảng cách giữa thành thị và nông 
thôn về cả mức sống, văn hóa, xã hội, hố ngăn 
cách được đào rộng, moi sâu.
(iii) Về cơ cấu lao động
Theo thống kê tính đến hết tháng 12/2013 
các doanh nghiệp FDI trong các KCN tỷ lệ 
lao động có trình độ cao đẳng, đại học chỉ 
chiếm 10%, trung cấp nghề và công nhân kỹ 
thuật là 25%, công nhân có tay nghề nhưng 
không có bằng cấp chiếm 28%, lao động phổ 
110
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
thông chiếm tới 42%. Thêm vào đó, số lao 
động trong khu vực này chủ yếu là lao động 
nữ (chiếm 69%), tay nghề thấp, số lao động 
được đào tạo rất hạn chế.32 
Thứ hai, vấn đề việc làm, thu nhập và 
mức sống
Khu công nghiệp là mô hình kinh tế góp 
phần tích cực vào giải quyết việc làm, nâng 
cao thu nhập và mức sống của nhân dân. Theo 
đó các mô hình kinh tế này tạo ra những việc 
làm trực tiếp cho lao động phổ thông và lao 
động có tay nghề cao; gián tiếp tạo ra những 
việc làm cho các dịch vụ hỗ trợ khu vực lân 
cận. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu 
tư, tính đến giữa năm 2015, các KCN, KCX, 
KKT trong cả nước giải quyết hơn 2,3 triệu 
lao động33. Tuy nhiên, trên thực tế dưới tác 
động của các KCN thì vấn đề việc làm, thu 
nhập và mức sống còn chứa đựng hạn chế bất 
cập đó là: Phát triển các KCN có thể tạo ra 
tình trạng thất nghiệp ở các địa phương lân 
cận. Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ 
yếu của nông dân. Nhường đất cho KCN đồng 
nghĩa với việc mất tư liệu sản xuất và mất việc 
trong việc làm nông nghiệp. Tính trung bình 
cứ mỗi KCN ra đời sẽ làm cho khoảng 2500 
– 3000 người mất việc trong nông nghiệp34. 
Những người này có thể rơi vào tình trạng 
không có việc làm và tất nhiên những hệ lụy 
khác sẽ nối dài trong đó trước mắt là thu nhập 
và mức sống sẽ giảm đáng kể.
Thứ ba, vấn đề đô thị hóa và cơ sở hạ 
tầng kinh tế - xã hội
Các KCN đã góp phần hình thành nhiều 
khu đô thị mới, nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ 
thuật – xã hội để thu hút đầu tư góp phần 
mang lại văn minh đô thị, cải thiện đời sống 
32 
33 
aspx?idTin=26508&idcm=207
34 “Đẩy mạnh tuyên truyền trên báo Đảng về nông dân, nông 
nghiệp, nông thôn ĐBSCL”, Nxb. Văn hoá thông tin, năm 2013
kinh tế, văn hóa, xã hội cho các địa phương. 
Diện mạo của Việt Nam đã thay đổi nhanh 
chóng trong hơn hai thập kỷ qua, hình hài một 
xã hội công nghiệp được hình thành và phát 
triển từ chính các KCN. Tuy nhiên, vấn đề đô 
thị hóa và cơ sở hạ tầng còn chứa đựng những 
hiệu ứng trái chiều về vấn đề giao thông và 
quy hoạch hệ thống hạ tầng cơ sở. 
Hệ thống giao thông trong các KCN chưa 
đáp ứng lưu thông, vận chuyển hàng hóa 
trong những giờ cao điểm. Hiện tượng ùn tắc 
giao thông, tai nạn giao thông, ô nhiễm khói 
bụi và tiếng ồn còn diễn ra ở nhiều nơi trong 
các KCN. Có nơi, hệ thống đường sá chưa 
được xây dựng đồng bộ, gây cho người dân 
trong vùng nhiều bức xúc và lo lắng.(i) Có thể 
do hệ thống đường giao thông vẫn ở trong dự 
án quy hoạch treo. Quy hoạch đường sá giao 
thông bị ngưng trệ dẫn đến các kế hoạch “an 
cư” khác của người dân bị trì hoãn theo và 
đời sống tạm bợ của nhân dân ở các vùng quy 
hoạch treo vẫn cứ tiếp diễn như là một căn 
bệnh “trầm kha” xung quanh các KCN. (ii) 
Hệ thống đường giao thông ngày càng bị ảnh 
hưởng nghiêm trọng do các xe container có 
trọng tải lớn của các doanh nghiệp lưu thông 
trong vùng có KCN.
Thứ tư, những nguy cơ đe dọa trật tự an 
toàn xã hội ngày càng gia tăng
Việc thu hút, sử dụng lao động phổ thông 
ngoại tỉnh vào các KCN trên cả nước đã làm 
phức tạp thêm tình hình trật tự, an toàn xã hội. 
Sự tập trung lao động nhập cư với những khác 
biệt về trình độ văn hóa và tập quán sinh hoạt, 
phong tục, đã gây nhiều xáo trộn, bất ổn 
định về an ninh, trật tự. Bên cạnh đó, sức ép 
ngày càng lớn về phát triển kết cấu hạ tầng kỹ 
thuật - xã hội như: điện, nước, phương tiện 
giao thông, nhà ở, trường học, bệnh viện, khu 
vui chơi, giải tríVới mức tiền lương thấp, 
111
Phân tích tác động . . .
điều kiện nhà ở khó khăn, nhu cầu vui chơi, 
giải trí, giao lưu tình cảm, không được thỏa 
mãn đầy đủ, thậm chí ít được tiếp cận với 
thông tin báo chí, phát thanh truyền hình. Đặc 
biệt trong các KCN, lao động nữ nhiều, vấn 
đề hôn nhân gia đình trở nên bức xúc nhưng 
chưa được các cơ quan, doanh nghiệp quan 
tâm thoả đáng. Các doanh nghiệp trong KCN 
phần lớn là của tư nhân, một số liên doanh 
là hỗn hợp giữa tư nhân và nhà nước; do vậy 
quan hệ lao động chủ yếu là quan hệ chủ - thợ 
thường nảy sinh mâu thuẫn lợi ích; người sử 
dụng lao động muốn tăng thời gian lao động, 
trả lương vừa phải để thu lợi nhuận nhiều; 
người lao động đòi tăng lương, giảm giờ làm. 
Mặc dù luật lao động đã quy định quyền lợi 
và nghĩa vụ của người lao động, việc giải 
quyết mâu thuẫn giữa chủ và thợ, kể cả đình 
công, bãi công, nhưng trên thực tế vẫn tồn tại 
hai vấn đề cần được lưu ý đó là: Người lao 
động thiếu hiểu biết luật pháp, chưa được tổ 
chức công đoàn hướng dẫn việc đấu tranh 
bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Chủ 
doanh nghiệp thiếu tôn trọng luật pháp, chưa 
ứng xử phù hợp với văn hóa và tập quán 
người Việt Nam; không thực hiện đúng quy 
định của Chính phủ về tiền lương, thời gian 
lao động và các nghĩa vụ khác của doanh 
nghiệp đối với người lao động. Tình trạng 
hợp đồng lao động bị vi phạm, chế độ bảo 
hiểm lao động, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm 
y tế không được đảm bảo. Hậu quả của tình 
trạng này là những cuộc đình công, lãn công 
và rất dễ chuyển hóa thành biểu tình, gây rối 
và khi bị kẻ xấu lợi dụng, kích động rất có 
khả năng biến thành các vấn đề phức tạp từ 
đó dễ dẫn đến mất ổn định an ninh, xã hội 
của đất nước. 
Thứ năm, vấn đề ô nhiễm môi trường 
trong và ngoài Khu công nghiệp
Cùng với những lợi ích mà các KCN mang 
lại thì môi trường trong và ngoài KCN cũng 
đang đối mặt với những thách thức: Ô nhiễm 
nguồn nước, không khí, rác thải từ các nhà 
máy trong các KCN đã ở mức cao và đang 
có xu hướng tiếp tục gia tăng đe dọa đến môi 
trường dân sinh; tỷ lệ các KCN, các doanh 
nghiệp trong KCN có hệ thống xử lý nước 
thải, khí thải và chất thải rắn còn rất thấp so 
với yêu cầu quản lý môi trường; Với mục đích 
là lợi nhuận cao nên các doanh nghiệp thường 
không chú ý tới việc bảo vệ môi trường, một 
số doanh nghiệp không tự giác trong việc 
tuân thủ quy định về bảo vệ môi trường, có 
những hành vi vi phạm, thậm chí rất tinh vi. 
Hệ thống văn bản pháp luật, các quy định về 
kiểm soát và xử lý vấn đề môi trường khá 
nhiều nhưng vẫn chưa đủ mạnh để đảm bảo 
vấn đề môi trường trong KCN, công tác quản 
lý môi trường còn lỏng lẻo, việc xử lý các 
doanh nghiệp vi phạm chưa nghiêm.
3. Một số kiến nghị, giải pháp khắc phục 
những tác động trái chiều của các KCN
Để khắc phục những tác động trái chiều từ 
quá trình phát triển các KCN đến kinh tế - xã 
hội cần thực hiện đồng bộ, quyết liệt nhiều 
giải pháp với nhiều chủ thể tiến hành. Trước 
hết, chúng tôi đề xuất ba nhóm giải pháp, kiến 
nghị sau:
Một là, nâng cao chất lượng qui hoạch 
phát triển các KCN phù hợp với đặc điểm 
địa chính trị, kinh tế và lợi thế của các địa 
phương
Qui hoạch được coi là yếu tố quan trọng 
giúp xác định mục tiêu, phương hướng cho 
sự phát triển của KCN. Dù vậy, công tác quy 
hoạch phát triển các KCN còn bộc lộ những 
bất cập như thiếu tầm chiến lược, thiếu tính dự 
báo và định hướng, chưa đặt các địa phương 
trong tổng thế phát triển kinh tế - xã hội của 
112
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
các vùng kinh tế trọng điểm và của cả nước, 
thiếu sự gắn kết với quy hoạch phát triển kinh 
tế - xã hội của các địa phương và với các vấn 
đề môi trường, nguồn nhân lựcchưa phát 
huy được lợi thế dẫn đến tình trạng mất cân 
đối trong cơ cấu kinh tế gồm cả cơ cấu ngành, 
vùng và lao động. Vì vậy cần phải:
(i) Việc xây dựng qui hoạch phải đi trước 
một bước so với yêu cầu thực tiễn. Trên cơ 
sở nghiên cứu những kinh nghiệm thành công 
của các quốc gia có điểm xuất phát tương 
đồng, tranh thủ ý kiến và sự tham gia của các 
chuyên gia, nhà quản lý trong và ngoài nước, 
công tác xây dựng qui hoạch một mặt cần 
được hoạch định cho những thời kỳ đủ dài để 
có những dự báo mang tính chiến lược. 
(ii) Việc qui hoạch phát triển các KCN cần 
dựa vào các căn cứ khoa học dự báo về tốc độ 
phát triển công nghiệp của các địa phương và 
của cả nước. Căn cứ vào đặc điểm địa chính 
trị, kinh tế để quy hoạch ngành, vùng, lao động 
trong phát triển các KCN. Không nhất thiết 
phải chạy theo số lượng, số dự án thu hút vào 
các KCN để đánh đổi những lợi ích lâu dài về 
môi trường, sức khỏe và mức sống của nhân 
dân. Các KCN ở Việt Nam hiện nay chủ yếu 
tập trung vào phát triển các ngành thâm dụng 
lao động trong khi đó các ngành công nghệ 
cao, chính xác, chế tạo máy móclại ít được 
quan tâm quy hoạch phát triển vì thế cần xây 
dựng qui hoạch, lộ trình và triển khai quyết liệt 
hơn nhất là những vùng có điều kiện, lợi thế 
phát triển.
(iii) Việc qui hoạch phải gắn với yêu cầu 
khắc phục những yếu kém từ hạ tầng cơ sở và 
vấn đề đô thị hóa. Nổi cộm nhất trong các KCN 
là vấn đề giao thông và quy hoạch của các khu 
đô thị “nửa phố, nửa làng”, những đô thị, nhà ở, 
chung cư không có người ở, bỏ hoang gây thiệt 
hại rất lớn cho các doanh nghiệp xây dựng hạ 
tầng KCN và quỹ đất phục vụ cho nông nghiệp 
trở thành hoang hóa ảnh hưởng đến an ninh 
lương thực và ngân sách nhà nước, địa phương. 
Vì vậy, qui hoạch cần dự tính vị trí đặt KCN 
đảm bảo tính bền vững, qui hoạch phát triển 
KCN cần xác định rõ những vị trí có thể xây 
dựng các KCN cũng như những ngành nghề cụ 
thể được phép đầu tư vào những vị trí này. Cụ 
thể là vị trí đặt KCN không được ảnh hưởng tới 
hành lang phát triển các đô thị trong tương lai. 
Đảm bảo vấn đề giao thông ra vào các KCN 
tránh hiện tượng tắc nghẽn giao thông gây cản 
trở đến hoạt động sản xuất và dân sinh. 
 (iv) Qui hoạch KCN, KCX, KKT cần có 
sự điều chỉnh định kỳ để phù hợp với diễn 
biến thực tế. Nên đánh giá và điều chỉnh qui 
hoạch theo định kỳ 5 năm, phù hợp với kế 
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Hai là, ổn định và nâng cao đời sống vật 
chất và tinh thần cho công nhân tại các Khu 
công nghiệp
(i) Lương phải đảm bảo mức sống tối thiểu 
của người công nhân. Theo Nghị định 103/2014 
NĐ – CP thì kể từ ngày 1/1/2015, mức lương 
tối thiểu tương ứng với các vùng I, II, III, IV là: 
3,1 triệu đồng; 2,75 triệu đồng; 2,4 triệu đồng 
và 2,15 triệu đồng. Thực tế, với mức lương nói 
trên, theo các nghiên cứu, thì chỉ mới đáp ứng 
được khoảng 60% mức sống tối thiểu. Vì vậy, 
việc nghiên cứu và đề xuất mức lương tối thiểu 
phải bổ sung thêm các căn cứ như: Chỉ số giá 
tiêu dùng, đời sống lao động, sự chênh lệch mức 
lương giữa khu vực phi chính thức và chính thức, 
lương giữa doanh nghiệp quy mô lớn và doanh 
nghiệp quy mô nhỏ. Thành lập Hội đồng nghiên 
cứu năng suất lao động, nhằm đảm bảo đời sống 
lao động, đề xuất những giải pháp cạnh tranh của 
lao động Việt Nam.
(ii) Chăm lo đời sống văn hóa cho công 
nhân trong các KCN. Trước hết cần xây dựng 
113
Phân tích tác động . . .
và hoàn thiện các chủ trương, chính sách về 
phát triển đời sống văn hóa cho công nhân lao 
động tại các KCN trong đó cần đảm bảo huy 
động 3 nguồn lực: sự đầu tư của chính quyền 
địa phương; sự đóng góp của các doanh 
nghiệp; nguồn xã hội hóa, tổ chức công đoàn 
và toàn xã hội. Trong các dự án quy hoạch 
tổng thể các KCN phải chú ý đến việc xây 
dựng và phát triển dịch vụ công cộng như 
giáo dục, y tế, khu vui chơi giải trí. 
(iii) Phát triển nhà ở, nhân rộng mô hình 
nhà lưu trú cho công nhân trong các KCN. 
Để có thể giải quyết vấn đề nhà ở cho công 
nhân trong các KCN thì cần phải có sự phối 
hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và 
người dân địa phương. Đó là khuyến khích xã 
hội hóa về nhà ở, đồng thời thực hiện chính 
sách tạo điều kiện, khắc phục tư tưởng thả 
nổi cho thị trường tự điều tiết; cần huy động 
sự tham gia của nhiều thành phần, sự nỗ lực 
của bản thân người lao động, trách nhiệm của 
người sử dụng lao động, sự tạo điều kiện của 
Nhà nước và sự hỗ trợ của cộng đồng xã hội.
(iv) Tăng cường phổ biến, giáo dục 
pháp luật, quan tâm đến lao động nữ. Cần 
tăng cường giáo dục pháp luật, phổ biến 
các quy định và chế độ của người lao động 
nói chung và công nhân trong các KCN nói 
riêng. Sống và làm việc theo Hiến pháp và 
pháp luật góp phần làm giảm tỷ lệ vi phạm 
pháp luật, các tệ nạn xã hội, xây dựng đời 
sống mới, nếp sống mới trong các khu dân 
cư lân cận KCN. Tăng cường phổ biến giáo 
dục pháp luật, luật hôn nhân và gia đình, 
các biện pháp phòng tránh thai, tình dục 
an toàn, xây dựng lối sống lành mạnh, tình 
yêu trong sáng, các khu trọ văn hóa, giảm 
thiểu và tiến tới xóa bỏ các tệ nạn xã hội. 
Ba là, thực hiện chính sách phòng ngừa, 
tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường 
trong và ngoài khu công nghiệp
Một trong những tác động trái chiều trong 
quá trình phát triển đó là tình trạng ô nhiễm 
môi trường trong và ngoài các KCN. Ô nhiễm 
môi trường hết sức đa dạng gồm cả môi trường 
nước, chất thải, không khí và tiếng ồn. Do 
vậy, cần phải có những giải pháp thiết thực và 
cấp bách để phòng ngừa và bảo vệ môi trường 
trong các KCN xem đây là một nội dung quan 
trọng cần thực hiện để đảm bảo mục tiêu, yêu 
cầu của phát triển bền vững.
(i) Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo 
dục ý thức bảo vệ môi trường cho các doanh 
nghiệp trong KCN. Cụ thể, tiến hành tổ chức 
các lớp tập huấn, phổ biến kiến thức, chủ 
trương, pháp luật bảo vệ môi trường cho các 
doanh nghiệp; Định kỳ phân loại các doanh 
nghiệp đạt và không đạt các tiêu chuẩn về 
bảo vệ môi trường theo hướng công bố “Sách 
xanh” các KCN. Công khai và có chế tài đối 
với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật hoặc 
thực hiện không tốt các tiêu chí về bảo vệ môi 
trường trên nhằm tạo sức ép đối với những 
doanh nghiệp vi phạm và khuyến khích 
những doanh nghiệp làm tốt công tác bảo vệ 
môi trường.
(ii) Cần nâng cao chất lượng công tác 
thẩm định thành lập KCN nhất là thẩm định 
về yếu tố môi trường. Theo đó, hồ sơ dự án 
khả thi phải đánh giá được tổng lượng khí 
thải, nước thải, rác thải và chất thải nguy hại 
do các doanh nghiệp thải ra cũng như mức độ 
ô nhiễm môi trường để từ đó có phương án 
đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải với 
quy mô, chất lượng xử lý đạt yêu cầu. Kết hợp 
giữa việc rà soát các chế tài xử lý hành vi gây 
ô nhiễm môi trường với việc hỗ trợ các đơn vị 
có liên quan để chấm dứt tình trạng ô nhiễm 
hiện tại, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm nguồn 
nước và ô nhiễm khí thải.
114
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
(iii) Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính 
sách và tăng cường thực thi pháp luật về bảo 
vệ môi trường KCN. Rà soát, điều chỉnh và 
bổ sung các văn bản chính sách pháp luật liên 
quan đến việc bảo vệ môi trường, về tổ chức 
thanh tra môi trường, về phân cấp quản lý môi 
trường trong các KCN.
(iv) Kiến nghị hình thành “Quỹ bảo vệ 
môi trường” trong các KCN. Quỹ Bảo vệ môi 
trường là tổ chức tài chính nhà nước, có chức 
năng huy động các nguồn tài chính trong và 
ngoài nước theo quy định của pháp luật để tài 
trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi, thúc đẩy hoạt 
động bảo vệ môi trường; tiếp nhận và quản 
lý nguồn vốn ủy thác từ các tổ chức, cá nhân 
trong nước và ngoài nước để hỗ trợ tài chính 
cho các chương trình, dự án, hoạt động và 
nhiệm vụ bảo vệ môi trường; Đào tạo, chuyển 
giao công nghệ thân thiện với môi trường, sản 
xuất sạch hơn, các giải pháp phòng chống, 
hạn chế và khắc phục ô nhiễm môi trường.
4. Kết luận
Xây dựng và phát triển các KCN là chủ 
trương đúng đắn của Đảng và nhà nước. Thực 
tiễn cho thấy, trong hơn 20 năm qua thực hiện 
chủ trương này các KCN đã đóng góp một 
phần to lớn thực hiện mục tiêu đưa nước ta 
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại vào năm 2020. Tuy nhiên, 
trong quá trình phát triển không thể tránh khỏi 
những ảnh hưởng tiêu cực cần được nhận diện 
và khắc phục kịp thời. Trên đây, chúng tôi đã 
nhận diện những tác động trái chiều và đề xuất 
những giải pháp khắc phục những tác động 
ngoài mong muốn đó. Dựa trên cơ sở khoa 
học và tổ chức triển khai mạnh mẽ, quyết liệt 
chắc chắn mô hình KCN là nhân tố đóng góp 
tích cực hơn vì một Việt Nam dân giàu, nước 
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phạm Nguyễn Ngọc Anh, Từ lý luận đến mô hình và hướng phát triển khu công nghiệp sinh thái ở 
Việt Nam, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, (Số 47), tr.77- 86.
[2]. Phạm Nguyễn Ngọc Anh, Giải bài toán việc làm cho nông dân sau khi bị thu hồi đất để phát triển 
các Khu công nghiệp – Từ thực tiễn Đồng bằng Sông Cửu Long, Sách “Đẩy mạnh tuyên truyền 
trên báo Đảng về nông dân, nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL”, NXB. Văn hoá thông tin, năm 2013, 
tr.144-157
[3]. Phạm Nguyễn Ngọc Anh, Đời sống công nhân ở khu công nghiệp, khu chế xuất, Tạp chí Cộng sản, 
HSSK số 285, tháng 8 năm 2014 
[4]. Ngô Thắng Lợi, Bùi Đức Tuân, Vũ Thành Hưởng, Vũ Cương, 2007, “Vấn đề phát triển bền vững các KCN 
của Việt Nam”, Tạp chí Khu công nghiệp, (Số 7), tr.19-25.
[5]. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cổng thông tin điện tử, địa chỉ:
[6]. Nguyễn Văn Minh, (2011), “Đánh giá tác động của khu công nghiệp tới kinh tế xã hội vùng lân cận”, 
Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 47 (6/2011).
[7]. Trần Văn Tùng, 2005, Tác động của tình trạng môi trường của một số khu công nghiệp phía Bắc tới 
sức khỏe cộng đồng, Đề tài cấp bộ, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới - Ủy ban dân số gia đình trẻ.

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_tac_dong_trai_chieu_cua_cac_khu_cong_nghiep_den_ki.pdf