Xã hội hóa giáo dục: Những lợi ích và rào cản

Tóm tắt: Đổi mới giáo dục ở Việt Nam là vấn đề đang được xã hội đặc biệt

quan tâm. Một công cụ quan trọng để đổi mới giáo dục là xã hội hóa giáo dục.

Thực chất của xã hội hóa giáo dục là chuyển giao những công việc cụ thể trước

đây Nhà nước thực hiện sang khu vực ngoài nhà nước (tổ chức, đoàn thể, hiệp

hội, các nhà đầu tư.). Xã hội hóa giáo dục có nhiều lợi ích, nhưng hiện nay, xã

hội hóa giáo dục còn chậm do còn nhiều rào cản. Nhiều người vẫn chưa thoát

được sức ỳ của cách làm cũ, cách nghĩ cũ; mặt trái của nền kinh tế thị trường

tác động mạnh đến cả lĩnh vực giáo dục; có sự cạnh tranh không công bằng

giữa trường công lập và ngoài công lập. Khắc phục những rào cản này thì mới

đẩy mạnh được xã hội hóa giáo dục.

pdf 6 trang yennguyen 3180
Bạn đang xem tài liệu "Xã hội hóa giáo dục: Những lợi ích và rào cản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xã hội hóa giáo dục: Những lợi ích và rào cản

Xã hội hóa giáo dục: Những lợi ích và rào cản
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(75) - 2014 
 72 
XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC 
NHỮNG LỢI ÍCH VÀ RÀO CẢN 
NGUYỄN HỮU KHIỂN* 
Tóm tắt: Đổi mới giáo dục ở Việt Nam là vấn đề đang được xã hội đặc biệt 
quan tâm. Một công cụ quan trọng để đổi mới giáo dục là xã hội hóa giáo dục. 
Thực chất của xã hội hóa giáo dục là chuyển giao những công việc cụ thể trước 
đây Nhà nước thực hiện sang khu vực ngoài nhà nước (tổ chức, đoàn thể, hiệp 
hội, các nhà đầu tư...). Xã hội hóa giáo dục có nhiều lợi ích, nhưng hiện nay, xã 
hội hóa giáo dục còn chậm do còn nhiều rào cản. Nhiều người vẫn chưa thoát 
được sức ỳ của cách làm cũ, cách nghĩ cũ; mặt trái của nền kinh tế thị trường 
tác động mạnh đến cả lĩnh vực giáo dục; có sự cạnh tranh không công bằng 
giữa trường công lập và ngoài công lập. Khắc phục những rào cản này thì mới 
đẩy mạnh được xã hội hóa giáo dục. 
Từ khóa: Xã hội hóa, đổi mới giáo dục, Việt Nam. 
Giáo dục có vai trò quan trọng đối 
với sự phát triển xã hội. Những quốc gia 
mà nền giáo dục kém thì không có một 
đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu 
phát triển của xã hội. Sự dốt nát đã được 
Hồ Chí Minh xếp vào loại “giặc” (cùng 
với nạn ngoại xâm và nạn đói kém). 
Điều đó chứng tỏ giáo dục được Hồ Chí 
Minh đặt thành quốc sách và nhiệm vụ 
hàng đầu ngay từ ngày đầu của công 
cuộc kháng chiến và kiến quốc. 
Nền giáo dục của nước ta đã đi được 
những chặng đường phát triển dài. Ngay 
sau khi giành được độc lập nhờ nền giáo 
dục truyền thống dân tộc và những 
thành quả về giáo dục mà chế độ thuộc 
địa Pháp để lại, nước ta có đội ngũ trí 
thức mạnh trong lĩnh vực khoa học, giáo 
dục. Ở giai đoạn này, nhiều nhà giáo 
dục tài giỏi được đào tạo bài bản từ một 
quốc gia tư bản hàng đầu là nước Pháp. 
Với lòng yêu nước họ đã tận tâm, tận 
lực phục vụ và phát triển nền giáo dục 
nước nhà. 
Ở giai đoạn tiếp theo, đội ngũ trí thức 
nước ta chủ yếu được đào tạo cơ bản với 
sự giúp đỡ quí báu theo tinh thần quốc 
tế vô tư từ các nước xã hội chủ nghĩa 
anh em, đứng đầu là Liên Xô.(*)Đội ngũ 
tri thức này đã đóng vai trò trụ cột trong 
(*) Giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Thành Tây. 
Xã hội hóa giáo dục: Những lợi ích và rào cản 
 73 
các lĩnh vực xã hội trong đó có giáo dục. 
Vào đầu những năm đổi mới, nền 
giáo dục nước nhà gặp phải bước hẫng 
hụt trên các mặt: đường hướng, chiến 
lược, bước đi, kể cả mô hình phát triển. 
Giáo dục thực sự rơi vào khủng hoảng. 
Việc phân định giữa quản lý nhà nước 
với hoạt động quản trị trong các cơ sở 
giáo dục, đào tạo chưa rõ. Quản lý giáo 
dục và đào tạo còn nhiều yếu kém; đội 
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục 
còn bất cập về chất lượng, số lượng và 
cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu 
cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu 
tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức 
nghề nghiệp(1). Hậu quả là, lực lượng trí 
thức được đào tạo ra chưa đáp ứng được 
yêu cầu phát triển của đất nước, nhất là 
yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế. 
Người Việt Nam thông minh, nhưng đất 
nước lại không sản sinh được người đi 
đầu trong khoa học (dạng như GS Ngô 
Bảo Châu). 
Để phát triển giáo dục, chính sách 
của Nhà nước cần phát huy vai trò mở 
đường, khuyến khích, kích thích, tạo 
động lực cho phát triển giáo dục. Xét 
trên bình diện tổng thể, muốn đổi mới 
giáo dục cần nhiều công cụ, bước đi và 
chính sách; trong đó có chính sách xã 
hội hóa giáo dục. 
Xã hội hóa giáo dục về thực chất là 
chuyển giao chức năng giáo dục, đào 
tạo của xã hội từ khu vực công sang 
khu vực tư. Xã hội hóa giáo dục đồng 
hành với đổi mới từ kinh tế tập trung 
sang nền kinh tế thị trường là hướng 
chia sẻ trách nhiệm các dịch vụ công từ 
Nhà nước sang khu vực dân sự. Xã hội 
hóa giáo dục cũng gắn liền với việc xác 
định chức năng xã hội của nhà nước là 
dẫn dắt bằng thể chế, chính sách và 
thanh tra, kiểm tra thay cho trực tiếp 
vận hành các thể chế kinh tế, văn hóa 
và giáo dục(2). Bài viết này phân tích 
những lợi ích của chính sách xã hội hóa 
giáo dục và những rào cản đối với 
chính sách này. 
1. Những lợi ích của xã hội hóa 
giáo dục(1) 
Nếu không có lợi thì không ai làm vì 
như thế là đi ngược lại sự phát triển và 
tiến bộ. Nhưng lợi ở đây được hiểu 
không chỉ là lợi ích vật chất, mà còn 
hàm chứa rất nhiều yếu tố thuộc tiến 
trình của sự phát triển. Xin chỉ nêu mấy 
cái lợi rất rõ dưới đây: 
(1) Các đoạn trích dẫn lấy từ Văn kiện Hội nghị 
Trung ương 8 khóa XI; xem Cổng điện tử Đảng 
Cộng sản Việt Nam: nghị quyết số 29-NQ/TW 
ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI 
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. 
(2) Cách đây trên 10 năm nếu ai nói về việc cần 
có các phòng công chứng tư nhân, không do các 
cơ quan tư pháp lập ra, vận hành thì chắc chắn 
ý kiến đó sẽ bị cho là sai lầm. Nhưng nay thì 
các trung tâm công chứng tư nhân đã làm rất tốt 
vai trò của mình và có lợi cho dịch vụ công, 
thay phần lớn công việc cụ thể của Nhà nước. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(75) - 2014 
 74 
Thứ nhất, về mặt tổ chức thể chế, xã 
hội hóa giáo dục là sự kiểm chứng việc 
phân định chức năng của nhà nước, của 
công quyền với chức năng của các thể 
chế tư nhân, với đoàn thể, các tổ chức 
phi công quyền (như các hiệp hội). 
Chẳng hạn như trường đại học được 
sáng lập, bảo trợ thương hiệu của hiệp 
hội, đoàn thể, nhóm sáng lập từ các nhà 
giáo dục và trí thức hiện đang hoạt 
động. Theo đó, khi thu hút được lòng tin 
của các cổ đông vì sự nghiệp giáo dục, 
họ đã bỏ ra những đồng tiền vốn nhàn 
rỗi để mạnh dạn đầu tư cho giáo dục. Sự 
phát triển của không ít các trường ngoài 
công lập chứng tỏ hướng đi đúng đắn 
đó, đồng thời đi đúng hướng chiến lược 
của Nhà nước. 
Nhà nước ngoài việc tổ chức bộ máy 
điều hành để quản lý xã hội có thể lập ra 
các tổ chức kinh tế, các cơ sở giáo dục 
hoặc văn hóa nhưng cần chú ý nguyên 
tắc: cái gì người dân làm được thì nhà 
nước không nên làm, càng không nên 
cạnh tranh. Cái gì có lợi cho người dân 
nhưng không mang lại lợi nhuận và 
người dân không muốn làm thì nhà nước 
phải làm để phục vụ nhân dân. Liệu có 
ai muốn lập một bến xe, một bệnh viện, 
trường học ở miền núi và mong rằng sẽ 
có hiệu quả kinh tế (bảo toàn đồng vốn 
chứ chưa nói đến lợi nhuận)? Liệu có 
một người bình thường lập một trường 
học với phương châm thu hút mọi học 
sinh không có tiền vào học tập? Chắc 
chắn là không. Và người làm việc đó chỉ 
có thể là nhà nước. 
Thứ hai, về chiến lược cải cách hành 
chính, xã hội hóa giáo dục là động thái 
tốt nhất cho chính sách giảm biên chế 
khu vực công - một gánh nặng ngân 
sách. Khi bắt đầu thực hiện cải cách 
hành chính, nhiều người lúc đầu thường 
nghĩ đơn thuần rằng, quyết tâm sẽ làm 
được. Năm 1994 cải cách hành chính 
được coi là bước đột phá để thực hiện 
cải cách trong các lĩnh vực khác (chữ 
“đột phá” khi đó còn được hiểu là: chọn 
lĩnh vực nhạy cảm, bức xúc nhất để làm 
trước; làm xong việc này sẽ tiếp tục cải 
cách các lĩnh vực khác). Nhưng, sau gần 
20 năm tính từ khi có nghị quyết đầu 
tiên về cải cách hành chính, bài toán cải 
cách hành chính vẫn chưa có lời giải 
(thậm chí ở một số lĩnh vực có tình 
trạng thủ tục mới càng xuất hiện nhiều; 
biên chế lại càng phình ra không chỉ ở 
các cơ quan của Nhà nước mà còn ở các 
tổ chức của Đảng, các đoàn thể). 
Ở một trường ngoài công lập (bất kể 
là tiểu học, trung học hay đại học) thì 
ngành nội vụ của các địa phương không 
phải làm các công việc như quản lý, 
tuyển dụng, biên chế, luân chuyển, 
Xã hội hóa giáo dục: Những lợi ích và rào cản 
 75 
thăng tiến, khen thưởng, hưu trí...; 
những công việc này đi kèm với bao 
nhiêu giấy tờ, thủ tục. Sẽ thêm hoặc bớt 
bao nhiêu biên chế nếu thêm hoặc bớt 
các trường ở khu vực công? Câu hỏi 
chắc không khó trả lời. 
Thứ ba, xã hội hóa giáo dục là sự 
tăng các trường ngoài công lập, giảm 
các trường công, tăng khu vực tư, giảm 
khu vực công trong dịch vụ dân sự; thu 
hút nguồn lực xã hội, giảm gánh nặng 
ngân sách nhà nước. Điều đó kéo theo 
sự giảm đi đáng kể chi tiêu công cho các 
việc mà Nhà nước phải đầu tư hàng trăm 
với hàng nghìn tỷ đồng ngân sách thuộc 
chi tiêu công. Hiện nay nhiều dự án khu 
dân cư cao cấp với qui mô lớn đều có 
phần đầu tư cho y tế và giáo dục rất hiện 
đại với số vốn đầu tư khổng lồ. Chỉ nói 
riêng việc có một dự án như vậy trong 
nhiều dự án đang triển khai của cả nước 
đã thu hút đầu tư từ khu vực ngoài công 
lập cho phát triển xã hội. Nếu không có 
các dự án đó, số tiền đầu tư cho giáo dục 
chắc chắn là đầu tư công, là tiền của 
Nhà nước. Nay số tiền đó có thể dành để 
chi cho các dịch vụ tiện ích khác của xã 
hội. Chúng ta chưa thể đánh giá được 
chính xác số tiền dự trữ trong nhân dân 
cụ thể là bao nhiêu, chỉ biết rằng số tiền 
đó là không nhỏ. 
Thứ tư, xã hội hóa giáo dục góp phần 
làm trong sạch bộ máy. Xã hội hóa giáo 
dục ở đâu thì ở đó bớt đi cơ hội xuất 
hiện tiêu cực trong tổ chức và nhân sự. 
Trong các trường ngoài công lập căn 
bản không tồn tại việc chạy chức, chạy 
quyền, không có người “cắp ô đi về” vì 
không có việc. Điều đó bớt đi bao nhiêu 
thủ tục có dấu hiệu tiêu cực mà ai cũng 
biết là đang tồn tại (trong tuyển dụng, 
thi tuyển, và các hoạt động quản lý con 
người...). 
2. Những rào cản của xã hội hóa 
giáo dục 
Mọi cuộc đổi mới đều bắt đầu từ đòi 
hỏi của xã hội. Đổi mới kinh tế xuất 
phát từ sự trì trệ trong cơ chế kìm hãm 
kinh tế phát triển. Nhưng không phải vì 
thế mà đổi mới kinh tế như ở nước ta chỉ 
gặp thuận lợi. Trong lĩnh vực giáo dục 
cũng vậy. Những rào cản chính của xã 
hội hóa giáo dục là: 
Một là, nhiều người khởi xướng đổi 
mới giáo dục cũng chưa thoát ra được 
sức ỳ của cách làm, cách nghĩ cũ. Ai 
cũng biết rằng giáo dục đang trì trệ có 
liên quan đến cơ chế và cần đổi mới. 
Nhưng đổi mới bằng cách nào? Những 
tác giả của đổi mới giáo dục vẫn chưa 
có câu trả lời rõ ràng vì vẫn dò dẫm và 
“sửa chữa nhỏ” cảm tính. 
Hai là, mặt trái của nền kinh tế thị 
trường tác động mạnh đến cả lĩnh vực 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(75) - 2014 
 76 
giáo dục. Xã hội hóa giáo dục là một 
mắt khâu của công cuộc đổi mới. Giáo 
dục không phải là một môi trường khép 
kín, không bị chi phối bởi các yếu tố 
tiêu cực của xã hội. Tình trạng tiêu cực 
trong giáo dục không phải là không có. 
Đó chính là một rào cản của quá trình 
đổi mới giáo dục nói chung và xã hội 
hóa giáo dục nói riêng. 
Tiêu cực sẽ làm cho ngành giáo dục 
khó tuyển chọn được những người giỏi 
và tâm huyết. Thiếu người giỏi và tâm 
huyết thì không thể đáp ứng được yêu 
cầu của xã hội hóa giáo dục. 
Ba là, có sự cạnh tranh không công 
bằng giữa khu vực đào tạo công lập và 
khu vực đào tạo ngoài công lập. Do 
chưa có quy định rành mạch giữa đơn vị 
hành chính công quyền với đơn vị sự 
nghiệp nên dẫn đến tình trạng là thêm 
người sẽ thêm ngân sách, thêm cơ sở vật 
chất. Trường công lập không phải chịu 
sức ép về tài chính như trường ngoài 
công lập. Một số trường công lập có 
biên chế tăng nhanh. Khi biên chế tăng 
thì có áp lực phải tăng đào tạo. Đây là 
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hiện 
tượng tranh nhau “vét” thí sinh. Và 
trong cuộc cạnh tranh này, trường công 
thường luôn thắng thế bởi các ưu thế: có 
học phí thấp; có nơi ăn ở thuận lợi cho 
sinh viên... 
Nhưng quan trọng hơn, nếu chạy 
theo số lượng thì các trường công lập 
không thể tạo nguồn lực có chất lượng 
cho xã hội. 
Tóm lại, xã hội hóa giáo dục theo 
hướng nhà nước chuyển giao có lộ trình 
tích cực, không bị giới hạn cho khu vực 
ngoài công lập (các trường công chỉ tập 
trung lĩnh vực mũi nhọn, chiến lược 
quốc gia) phù hợp với chức năng của 
nhà nước, là xu thế chung của thế giới. 
Đó là hình thức huy động nguồn lực 
chính đáng. Xã hội hóa giáo dục làm 
cho cơ sở vật chất của xã hội nhiều lên, 
trong khi Nhà nước không phải đầu tư 
trực tiếp. Xã hội hóa giáo dục cần phải 
được đẩy mạnh hơn nữa. 
Tài liệu tham khảo 
1. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1997), Xã hội 
hóa công tác giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
2. Phạm Minh Hạc, Phải xem lại đường lối 
quản lý giáo dục, Báo Điện tử tuanvietnam.net, 
ngày 21/07/2009. 
3. Vũ Ngọc Hải, Các chính sách bảo đảm 
sự thành công cải cách giáo dục đại học, Báo 
Điện tử tuanvietnam.net, ngày 21/07/2009. 
4. Hoàng Tụy (2009), “Giáo dục xin cho tôi 
nói thẳng”, Tạp chí Tia sáng, số 19. 
5. Hoàng Tụy, Giáo dục không thể đổi mới 
vụn vặt, Báo Điện tử tuanvietnam.net, ngày 
08/10/2009. 
Xã hội hóa giáo dục: Những lợi ích và rào cản 
 77 

File đính kèm:

  • pdfxa_hoi_hoa_giao_duc_nhung_loi_ich_va_rao_can.pdf