Ngôn ngữ học xã hội: Những quan niệm và khuynh hướng
ABSTRACT
Sociolinguistics is a Language Science born in the early 1960s in the
Western countries. On the social side, it was derived from the socioeconomic crisis of the industrialized countries. In terms of
epistemology, it was born from the inability of traditional linguistics
and structural linguistics in solving linguistic problems posed by life.
This article summerizes the process of formation of sociolinguistics,
different concepts on its characteristics and research objects, and
major schools of this new discipline. Especially, the author highlights
the sociolinguistic school of Rouen, which forms many doctors of
language sciences, including sociolinguistics.
Bạn đang xem tài liệu "Ngôn ngữ học xã hội: Những quan niệm và khuynh hướng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngôn ngữ học xã hội: Những quan niệm và khuynh hướng
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 79 NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI: NHỮNG QUAN NIỆM VÀ KHUYNH HƯỚNG Trần Thanh Ái1 1 Khoa Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ Thông tin chung: Ngày nhận: 12/12/2012 Ngày chấp nhận: 25/03/2013 Title: Sociolinguistics: Some views and tendencies Từ khóa: Ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học cấu trúc, khủng hoảng văn hóa xã hội, khủng hoảng ngôn ngữ học, đồng biến Keywords: Sociolinguistics, structural linguistics, socio-cultural crisis, linguistic crisis, covariance ABSTRACT Sociolinguistics is a Language Science born in the early 1960s in the Western countries. On the social side, it was derived from the socio- economic crisis of the industrialized countries. In terms of epistemology, it was born from the inability of traditional linguistics and structural linguistics in solving linguistic problems posed by life. This article summerizes the process of formation of sociolinguistics, different concepts on its characteristics and research objects, and major schools of this new discipline. Especially, the author highlights the sociolinguistic school of Rouen, which forms many doctors of language sciences, including sociolinguistics. TÓM TẮT Ngôn ngữ học xã hội là một ngành khoa học ngôn ngữ ra đời vào đầu những năm 1960 ở các nước phương Tây. Về phương diện xã hội, nó bắt nguồn từ sự khủng hoảng kinh tế xã hội của các nước công nghiệp hóa. Về phương diện khoa học luận, nó ra đời từ sự bất lực của ngôn ngữ học truyền thống và ngôn ngữ học cấu trúc trong việc giải quyết các vấn đề ngôn ngữ do cuộc sống đặt ra. Bài viết này trình bày tóm tắt quá trình hình thành của ngôn ngữ học xã hội, những quan niệm khác nhau về đặc điểm và đối tượng nghiên cứu của nó, và những trào lưu chủ yếu của ngành học mới mẻ này. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh trường phái của Đại học Rouen (Pháp), nơi đã đào tạo cho Việt Nam nhiều tiến sĩ về khoa học ngôn ngữ. 1 GIỚI THIỆU Từ lâu, người ta đã biết đến mối quan hệ giữa hoạt động ngôn ngữ và xã hội. Ngay từ đầu thế kỷ XX, một nhà nghiên cứu Pháp tên là Raoul de la Grasserie đã sử dụng cụm từ xã hội học ngôn ngữ (sociologie linguistique) trong một bài viết in năm 1906 (trước khi quyển Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của F. de Saussure ra đời). Sau đó là Hodson (1939), Nida (1949), Haugen (1951), Currie (1952), Weinreich (1953), Pickford (1956), Wallis (1956) đã dùng thuật ngữ sociolinguistics (ngôn ngữ học xã hội) để chỉ việc nghiên cứu ngôn ngữ gắn liền với môi trường văn hóa xã hội. Ở Pháp, vào năm 1956 Marcel Cohen cho ra đời tác phẩm Pour une sociologie du langage (Vì một ngành xã hội học về hoạt động ngôn ngữ, Nxb Albin Michel), mà sau đó, trong lời đề tựa cho lần tái bản (1971), ông đã xác nhận rằng vì thuật ngữ sociolinguistics đã được sử dụng rộng rãi trong Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 80 tiếng Anh nên "thuật ngữ sociolinguistique có lý do chính đáng để tồn tại". Nhưng phải đợi đến những năm 60 của thế kỷ XX thì ngành ngôn ngữ học xã hội mới ra đời như là một ngành khoa học độc lập, nhờ những nỗ lực của các nhà nghiên cứu nhân loại học, ngôn ngữ học, tâm lý học như Dell Hymes, Ervin-Tripp, Ferguson, Fisher..., mà Hội nghị năm 1964 tại Đại học California ở Los Angeles (UCLA) là một mốc thời gian quan trọng. 2 BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI 2.1 Bối cảnh kinh tế xã hội Sự ra đời của ngôn ngữ học xã hội với tư cách là một ngành khoa học ở Hoa Kỳ gắn liền với những biến chuyển kinh tế xã hội. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, cường quốc hàng đầu trên thế giới này chợt nhận ra rằng nó phải đương đầu với nạn bần cùng. Tình trạng thâm thủng ngân sách triền miên, cộng với chiến tranh ở Việt Nam và những cơn khủng hoảng dầu hỏa đã làm tình hình thêm trầm trọng : lạm phát gia tăng, giá cả leo thang, thất nghiệp rình rập. Nạn nhân trước tiên là các cộng đồng ngôn ngữ thiểu số (dân da đen, người nhập cư đến từ các nước Trung Mỹ, dân da đỏ...). Người ta nhận ra rằng vấn đề hội nhập vào xã hội của các tầng lớp chịu nhiều thiệt thòi này gắn liền với vấn đề tiếp thu ngôn ngữ (tiếng Anh) và ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong việc phân hóa xã hội. Ở Pháp, những khía cạnh khác nhau của một xã hội đang trong thời kỳ khủng hoảng là tiền đề cho việc hình thành một khuynh hướng nghiên cứu mới: thất nghiệp và nạn tái bần cùng phát triển, khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa cực đoan đang lên, văn hóa công nhân suy thoái, bùng nổ các phương tiện hiện đại về thông tin và quản lý, thái độ bài ngoại và vấn đề hội nhập, thái độ hoài nghi về khả năng thay đổi sâu rộng cấu trúc xã hội của nhà nước. Các nhà xã hội học còn nêu ra những đặc điểm khác của xã hội Pháp. Một mặt, đó là một xã hội của đám đông (société de masse), bị chi phối mạnh mẽ bởi các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt khác, nó hàm chứa nhiều dị biệt, dẫn đến sự phân hóa xã hội: sự bùng nổ các giai tầng xã hội, sự tự khẳng định của các tộc người thiểu số, sự xuất hiện ồ ạt của các hội đoàn... Tất cả những đặc điểm ấy đã được phản ánh trong các chủ đề mà ngành ngôn ngữ học xã hội Pháp quan tâm: ngôn ngữ và trường học, diễn ngôn chính trị, tha hóa ngôn ngữ, chính sách ngôn ngữ cho các dân tộc thiểu số... Tóm lại, mỗi quốc gia có những vấn đề riêng của mình trong giai đoạn khủng hoảng, và từ đó ra đời ngành ngôn ngữ học xã hội cho thời kỳ khủng hoảng của mình. 2.2 Bối cảnh khoa học Trong bối cảnh ấy, song song với việc ban hành một chính sách xã hội nhằm giúp đỡ các dân tộc thiểu số, nhất là trẻ em, được đến trường, chính quyền liên bang Mỹ đã khuyến khích các nhà nghiên cứu chú ý đến hiện tượng xã hội này. Ba nhà nghiên cứu William Labov, Dell Hymes và John Gumperz đã xác định cho mình mục tiêu nghiên cứu là tìm ra giải pháp cho các vấn đề xã hội trực tiếp liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ. Labov đã dành nhiều tâm trí nghiên cứu nguyên nhân của sự thất bại ở trường học của trẻ em da đen. Hymes không chỉ quan tâm đến công cụ ngôn ngữ và các cộng đồng ngôn ngữ, mà còn chú ý đến cá nhân và cấu trúc xã hội. Gumperz đi sâu vào phân tích những đối thoại đời thường và qua đó tìm cách kết nối khía cạnh dụng ngữ học với các biến đổi xã hội. Ở Pháp, sự quan tâm đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ với đời sống xã hội đã có từ lâu. Chevalier ghi nhận như sau : "Từ rất lâu, và nhất là từ thế kỷ XIX, ngành ngôn ngữ học Pháp đã bị ám ảnh bởi vấn đề về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và những chuyển biến xã hội. Người ta không ngừng tìm hiểu vai trò của dân chúng, của các định chế xã hội, của tư tưởng trong việc hình thành các phương ngữ, trong việc thiết lập các chuẩn mực, cũng như trong uy lực của chúng" (dẫn lại từ Baylon, 1991: 16). Trong giai đoạn hiện đại, Ch. Bailly và A. Meillet là hai nhà nghiên cứu đã đề cập nhiều đến hiện tượng những yếu tố xã hội chi phối Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 81 các hiện tượng ngôn ngữ. Thế nhưng, nghịch lý thay, mối quan tâm này lại bị ngôn ngữ học cấu trúc (linguistique structurale) và ngữ pháp phái sinh (grammaire générative) lấn át. Phải đợi đến khi các công trình của các nhà nghiên cứu người Anh về hành động lời nói (speech acts) được công bố, thì mối quan tâm ấy mới được chú ý đúng mức: O. Ducrot giới thiệu các nghiên cứu về hành động lời nói; J.-B. Marcellesi và B. Gardin giúp công chúng làm quen với tư tưởng của W. Labov về một ngành ngôn ngữ học về sự đa dạng ngôn ngữ, mà ông gọi là ngôn ngữ học xã hội biến đổi (sociolinguistique variationniste). 2.2.1 Sự ra đời của khuynh hướng mới trong bối cảnh phân ngành khoa học Từ nhiều thập kỷ gần đây, các ngành khoa học xã hội và nhân văn có những bước tiến triển mới, nhờ vào sự phát triển các mối quan hệ với nhiều ngành khoa học khác. Thật vậy, bên cạnh sự phân ngành được xem như là kết quả tất yếu của sự phát triển của khoa học, người ta lại thấy xuất hiện nhiều ngành mới được hình thành từ nhiều ngành khác nhau, dẫn đến tình trạng là ranh giới giữa các ngành khoa học không còn rõ ràng như trước nữa. Các khái niệm liên ngành (interdisciplinarité), đa ngành (pluridisciplinarité), liên thông (interpénétration) đã trở nên quen thuộc trong giới nghiên cứu. C. Baylon nhận xét : "Thời đại ngày nay là thời đại của sự giao thoa giữa các ngành nghiên cứu gần gũi và thậm chí khác biệt : chúng ta có thể chứng kiến nhiều sự kết hợp mới để tạo ra những ngành nghiên cứu mới, như là nhân loại học chính trị (anthropologie politique), thực vật học chủng tộc (ethnobotanique), ngôn ngữ học xã hội (sociolinguistique)..." (1991: 9). Ngôn ngữ học cũng bị chi phối bởi khuynh hướng nghiên cứu này. Chẳng hạn khi tìm hiểu một hoạt động giao tiếp, ngành ngôn ngữ học không thể chỉ nghiên cứu ngôn ngữ như là một hệ thống khép kín, mà phải cần đến những dữ liệu liên quan đến con người và xã hội để nắm bắt được ý nghĩa của thông điệp. Nó phải xem ngôn ngữ như là một cấu trúc vi mô nằm trong một cấu trúc vĩ mô mà hai thành tố cơ bản của nó là con người và xã hội. Vì thế ngôn ngữ học cần phải được hỗ trợ bởi các ngành khoa học khác như là tâm lý học và xã hội học: ngành ngôn ngữ học tâm lý (A: psycholinguistics; P: psycholinguistique) có đối tượng nghiên cứu là cá nhân trong giao tiếp bằng lời nói, ngành ngôn ngữ học thần kinh (A.: neurolinguistics; P.: neurolinguistique) nghiên cứu về các hiện tượng thần kinh trong cơ chế kiểm soát việc tiếp nhận lời nói, phát ngôn và thụ đắc ngôn ngữ, ngành ngôn ngữ học chủng tộc (A.: ethnolinguistics; P.: ethnolinguistique) nghiên cứu ngôn ngữ như là biểu hiện của một nền văn hóa của một tộc người, ngành ngôn ngữ học xã hội (A: sociolinguistics; P: sociolinguistique) nghiên cứu sự kiện giao tiếp bằng lời nói trong xã hội, nghĩa là nghiên cứu sự kiện giao tiếp thông qua xã hội, hoặc ngược lại. Nói cách khác, ngôn ngữ học xã hội nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và xã hội. 2.2.2 Ngôn ngữ học xã hội manh nha từ những hạn chế của ngôn ngữ học cấu trúc Các phê phán của Bakhtine (Volochinov) Nhận xét về ngôn ngữ học đương thời, Bakhtine (Volochinov) trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ (xuất bản lần đầu ở Liên xô năm 1929, ở Anh năm 1973, ở Pháp năm 1977) nhận thấy rằng có hai khuynh hướng chính chi phối các công trình nghiên cứu, mà hai ông gọi là khuynh hướng chủ quan duy tâm (subjectivisme idéaliste) và khuynh hướng khách quan trừu tượng (objectivisme abstrait). Về các tên gọi này, các tác giả nhấn mạnh rằng thông thường, các tên gọi khó có thể bao quát hết nội dung và tính chất phức tạp của các khuynh hướng. Đặc biệt là tên gọi thứ nhất, hai ông nhận thấy nó rất không thích hợp, nhưng đành phải sử dụng vì không tìm ra tên gọi nào tốt hơn. Khuynh hướng chủ quan duy tâm: khuynh hướng này quan tâm đến hành động lời nói, đến sản phẩm ngôn ngữ của cá nhân, và xem nó như là nền tảng của ngôn ngữ, và hoạt động tinh thần (psychisme) của mỗi cá nhân là nguồn gốc của ngôn ngữ. Vì thế, quy luật sáng tạo ngôn ngữ chính là quy luật hoạt động tinh thần của mỗi cá nhân. Nghiên cứu ngôn ngữ nhất thiết Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 82 phải nghiên cứu các quy luật hoạt động tinh thần này. Khuynh hướng này có thể được tóm tắt trong bốn luận điểm sau đây: Ngôn ngữ là một hoạt động, một quá trình sáng tạo liên tục, được vật chất hóa dưới hình thức hành động lời nói của các cá nhân. Các quy luật sáng tạo ngôn ngữ nhất thiết phải là các quy luật tâm lý cá nhân. Sự sáng tạo ngôn ngữ là một sự sáng tạo lý tính, tương tự như sự sáng tạo nghệ thuật. Ngôn ngữ, với tư cách là một sản phẩm hoàn chỉnh, một hệ thống ổn định (từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm), được quan niệm như là một kho tàng bất động, như dòng dung nham đã nguội, được các nhà ngôn ngữ học xây dựng một cách trừu tượng nhằm những mục đích cụ thể như là một công cụ. Theo Bakhtine (Volochinov), đại biểu xuất sắc nhất của khuynh hướng này là Wilhelm Humboldt. Tư tưởng của ông vượt xa khuôn khổ của bốn luận điểm nêu trên và «cả nền ngôn ngữ học sau ông, kể cả đến ngày nay, đều chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng của ông. Ông được xem là nhà tiên phong của nhiều trào lưu ngôn ngữ khác biệt nhau, bởi vì tư tưởng của ông quá rộng, quá phức tạp, thậm chí quá mâu thuẫn» (Bakhtine-Volochinov, 1977: 75). Tuy nhiên, hạt nhân cơ bản của tư tưởng Humboldt vẫn là khuynh hướng chủ quan duy tâm. Khuynh hướng khách quan trừu tượng: Khuynh hướng nghiên cứu này đặt trọng tâm vào hệ thống ngôn ngữ, bao gồm hệ thống ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng của ngôn ngữ. Nếu trong khuynh hướng thứ nhất, ngôn ngữ là một làn sóng bất tận của những hành động lời nói, ở đó, không có gì là ổn định, thì trong khuynh hướng thứ hai, ngôn ngữ là một chiếc cầu vồng bất động, chế ngự làn sóng ấy. Trong mỗi hành động lời nói, trong mỗi phát ngôn, người ta có thể tìm thấy những nhân tố giống với những nhân tố của các hành động phát ngôn khác trong cùng một cộng đồng ngôn ngữ. Những nhân tố giống nhau này – đó là những nét ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng – bảo đảm cho tính thống nhất của một ngôn ngữ và sự hiểu nhau của các thành viên trong cộng đồng. Sự bế tắc của ngôn ngữ học cấu trúc Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ cấu trúc luận (structuralisme) được dùng để các trường phái nghiên cứu ngôn ngữ khác nhau, nhưng có cùng quan niệm và phương pháp nghiên cứu là dựa trên định nghĩa về cấu trúc trong ngôn ngữ học. Về quan niệm, các trường phái chức năng (fonctionnalisme), ngữ vị học (glossématique) hoặc trường phái phân bố (distributionnalisme) xây dựng ngôn ngữ học trên việc nghiên cứu các phát ngôn đã được thực hiện, và đề ra nhiệm vụ là soạn ra một lý thuyết cho văn bản được xem là khép kín, và sử dụng phương pháp phân tích hình thức (analyse formelle). Vì thế, trước tiên ngôn ngữ học cấu trúc đề ra nguyên lý nội tại (principe d’immanence), vì nhà ngôn ngữ giới hạn việc nghiên cứu trong phạm vi các phát ngôn đã được thực hiện (ngữ liệu phân tích: corpus) và tìm cách xác định cấu trúc của chúng, cũng như mối quan hệ nội tại giữa các thành tố cấu tạo nên chúng. Nghĩa là tất cả những gì liên quan đến tình huống phát ngôn (người phát ngôn, người đối thoại, bối cảnh phát ngôn...) đều bị gạt ra ngoài phạm vi nghiên cứu. Trường phái cấu trúc luận Hoa Kỳ, mà tiêu biểu là L. Bloomfield, cho rằng không thể xác định được nghĩa và mối liên hệ giữa người phát ngôn với thế giới bên ngoài. Một đặc điểm khác không kém phần quan trọng là ngôn ngữ học cấu trúc phân biệt dưới nhiều dạng khác nhau một bên là mã ngôn ngữ (code linguistique) và một bên là sự sử dụng mã ấy (lời nói). Vì thế, nhà nghiên cứu dựa trên những cứ liệu phân tích để rút ra n ... lời nói) đều là phương cách thiết lập quan hệ với một chuẩn mực xã hội nào đó; vì thế đó chính là sự xã hội hóa bản thân và hành động của mình. Khi có ý thức về bản thân mình tức là tôi đã cố gắng nhìn tôi với đôi mắt của một người khác, của một đại biểu khác của nhóm xã hội của tôi hoặc của giai cấp tôi" (Bakhtine-Volochinov, 1977: 128-130). Hoặc: "Phát ngôn riêng lẻ (lời nói) không hề là một sự kiện cá nhân [...]. Chủ nghĩa chủ quan cá nhân sai lầm ở chỗ là nó không biết và không hiểu bản chất xã hội của phát ngôn, và cố diễn dịch phát ngôn từ thế giới nội tâm của người phát ngôn, như là một biểu hiện của thế giới nội tâm. Cấu trúc của phát ngôn, cũng như là cấu trúc của chính kinh nghiệm có thể diễn đạt được, là một cấu trúc xã hội" (1977: 111-112). Hoặc nói như Bakhtine: "Trong ngôn ngữ, không có một từ nào, một dạng nào là trung lập, không thuộc về ai: mỗi từ đều cho thấy nghề nghiệp, thể loại, khuynh hướng, đảng phái, tác phẩm cụ thể, con người cụ thể nào đó, thế hệ, tuổi tác, ngày, giờ. Mỗi từ đều để lộ ra các bối cảnh của đời sống xã hội tích cực của nó ; tất cả từ ngữ và tất cả dạng thức ngôn ngữ đều ẩn chứa những ý định. Trong từ ngữ, sự hài hòa với bối cảnh (của thể loại, của khuynh hướng, của cá nhân) thì không thể tránh khỏi được" (Bakhtine, 1978: 106). Ngôn ngữ học xã hội biến đổi của Labov Gardin, tác giả đầu tiên đã có công giới thiệu Labov với công chúng Pháp trong công trình Introduction à la sociolinguistique. La linguistique sociale (viết chung với Marcellesi, 1974), đã nhận thấy ở ngôn ngữ học xã hội của Labov khả năng thoát khỏi khuynh hướng xã hội học mơ hồ (sociologisme vague) và nguyên lý đầy tham vọng nhưng bất lực về bản chất xã hội của ngôn ngữ, cũng như khả năng tiếp cận khoa học với những lẽ hiển nhiên đời thường như là: Cộng đồng ngôn ngữ dựa trên sự đồng nhất về chuẩn mực ngôn ngữ và sự dị biệt về cách ứng xử; Mọi chủ thể nói năng của một ngôn ngữ đều có khả năng biến đổi cách sử dụng ngôn ngữ của mình cho phù hợp với tình huống; Mọi sự biến đổi ấy đều do xã hội quy định và các chủ thể nói năng ít nhiều đều nhận thức được điều ấy; Một mặt nhìn nhận những ưu điểm ấy, một mặt, Gardin đã chỉ ra những hạn chế của ngôn ngữ học xã hội Labov. Ông cho rằng ngôn ngữ học xã hội của Labov vẫn chỉ là ngành ngôn ngữ học xã hội ngoài lề (sociolinguistique de la marge), vì nó xem ngôn ngữ là một thực thể cố định và chỉ nghiên cứu những khía cạnh biến đổi theo thời gian. Nói cách khác, yếu tố xã hội trong ngôn ngữ học xã hội của Labov mang đậm tính chất ngoài lề. Gardin còn chỉ ra rằng Labov đã vô hình trung đồng hóa tính chất xã hội trong ngôn ngữ với bản sắc của cộng đồng ngôn ngữ: "Các nhóm xã hội tạo ra các biến đổi ngôn ngữ để tự khẳng định mình để phân biệt với các nhóm xã hội khác: sự biến đổi ấy dù ở dưới dạng nào đi nữa, đều là quá trình tự xác định của các nhóm xã hội, đều nhằm tạo ra bản sắc riêng bằng những hình tượng khác biệt, hoàn toàn không có liên quan gì đến các hoạt động xã hội khác cũng như với chức năng mà họ đảm nhiệm trong sản xuất" (1988: 12). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 93 "Ngôn ngữ học xã hội theo kiểu Labov không thể nhận thức được sự thay đổi xã hội, sự sản sinh ra những mối quan hệ mới, cũng như không thể chỉ ra tính chất thường trực của cấu trúc ẩn sau những thay đổi bên ngoài. Thế mà xã hội luôn thay đổi và ngôn ngữ cũng vậy. Vì thế cần phải có một ngành ngôn ngữ học có khả năng nắm bắt những sự việc này" (1988: 15). Có thể tóm tắt khuynh hướng nghiên cứu này qua phát biểu sau đây: "Lý thuyết của M. Godelier (1978) cũng như những thành tựu của phương pháp luận chủng tộc (ethnométhodologie) đã khiến chúng tôi nhìn nhận rằng diễn ngôn và ngôn ngữ không chỉ là những phản ánh đơn thuần thực tại, nó còn là những lực lượng sản xuất" (Gardin, 1988: 13). Để nghiên cứu hiện tượng biến đổi xã hội và ngôn ngữ, B. Gardin đã chủ trương một cách tiếp cận mới: "Có lẽ cần phải thay đổi góc độ quan sát, phải quan sát những gì đang xảy ra ở những nơi mà mọi việc chưa được quyết định, ở những nơi mà ngôn ngữ có chức năng sản xuất nhiều hơn là thể hiện, ở những nơi mà các chủ thể nói năng quan tâm nhiều đến việc chiếm một vị trí mới, ở những nơi mà của cải vật chất và các mối quan hệ xã hội được tạo ra trong cùng một hoạt động, ở những nơi mà quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới tự nhiên được xác lập chung với nhau, ở những nơi mà hoạt động ngôn ngữ trong lao động cũng bị biến đổi" (Gardin, 1988: 15). Ngôn ngữ học hành động (praxématique). Khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ học này gắn liền với tên tuổi của nhà ngôn ngữ học nổi tiếng R. Laffont, chuyên nghiên cứu về tình hình xung đột ngôn ngữ ở các vùng tồn tại song song ngôn ngữ chính thức (ngôn ngữ quốc gia) và tiếng mẹ đẻ, như vùng miền Nam nước Pháp (Languedoc-Roussillon). Thuật ngữ praxématique xuất phát từ thuật ngữ praxis, có nghĩa là hoạt động nhằm đạt được một kết quả, một mặt đối lập với kiến thức, mặt khác, đối lập với thực thể (nguyên văn bằng tiếng Pháp: "Activité en vue d'un résultat, opposée à la connaissance d'une part, à l'être d'autre part", Le Petit Robert, 2009). Vì thế, praxématique (đôi khi còn được gọi là praxématique linguistique) được các nhà sáng lập định nghĩa là ngành ngôn ngữ học duy vật, nhằm nghiên cứu quá trình tạo nghĩa. Thành tích khoa học của trường phái Rouen Có lẽ phải kể đến Đại học Văn Khoa Nanterre như là cái nôi đầu tiên của ngôn ngữ học xã hội Pháp, nơi quy tụ nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ nổi tiếng như J. Dubois, J. Sumpf, L. Guilbert, J.B. Marcellesi, L. Guespin... Chính từ nơi đây đã cho ra đời công trình đầu tiên ở Pháp mang tên Ngôn ngữ học xã hội (tạp chí Langages, số 11 năm 1968, do J. Sumpf chủ biên). Cũng cần nhắc lại là trước đó chưa hề có công trình nghiên cứu nào mang tên gọi như vậy, mặc dù khuynh hướng nghiên cứu này đã được nhiều học giả phát thảo ra. Ba năm sau đó, cũng chính Đại học Văn Khoa Nanterre tiếp tục cho ra mắt số 9 của tạp chí Langue française mang tên Ngôn ngữ học và Xã hội, do J.-B. Marcellesi chủ biên. Qua hai số tạp chí này nổi lên các lĩnh vực nghiên cứu mà sau này đã trở thành thế mạnh của ngôn ngữ học xã hội Pháp: phân tích diễn ngôn chính trị dưới góc độ ngôn ngữ học xã hội, nghiên cứu hiện tượng song ngữ bất bình đẳng, nghiên cứu ngôn ngữ nói trong đời thường theo phương pháp của Labov... Kể từ đó, hàng loạt công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học xã hội đã ra đời trên khắp nước Pháp như Đại Hội Tours, Nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội (Marcellesi, 1971), Dẫn nhập Ngôn ngữ học xã hội (Marcellesi & Gardin, 1974), Ủng hộ và Chống F. de Saussure Hướng đến một nền ngôn ngữ học xã hội (Calvet, 1975), Ngôn ngữ học xã hội hay Xã hội học ngôn ngữ (Boutet, Fiala, Simonỉn-Gumbach, 1976), Ngôn ngữ học và Ngôn ngữ học xã hội (Encrvé, 1977), Ngôn ngữ học xã hội. Các cách tiếp cận, Lý thuyết và Thực tiễn (Gardin & Marcellesi, 1980)... Nhóm nghiên cứu mà sau này trở thành nòng cốt của trường phái Rouen ban đầu quy tụ một số giảng viên của Đại học Văn Khoa Nanterre như J.-B. Marcellesi, J.P. Colin, D. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 94 Maldidier, L. Guespin, B. Gardin, M. Giacomo, C. Marcellesi, G. Chaveau-Provost, J.P. Kaminker, M. Briot, F. Madray, D. Baggioni, và lấy tên là GRECO (Groupe de recherche sur la Covariance Sociolinguistique – Nhóm nghiên cứu về sự đồng biến ngôn ngữ học xã hội). Họ đồng thời cũng còn là thành viên của nhóm nghiên cứu Néologie lexicale (Từ mới) do Louis Guilbert lãnh đạo. Tham vọng của nhóm là tìm những câu trả lời về mặt lý thuyết và khoa học luận trong lĩnh vực ngôn ngữ học xã hội, trên cơ sở nhận thức thống nhất với nhau là khái niệm đồng biến (covariance) cần phải được định nghĩa " một cách biện chứng ". Nhóm này dần dần chuyển về Đại học Rouen vừa mới thành lập. Từ đó, hoạt động của nhóm càng được độc lập hơn và không ngừng phát triển, qua việc cho ra đời Tạp chí Cahier de linguistique sociale (ngày nay vẫn còn xuất bản) và nhiều ấn phẩm khác, đặc biệt là đã làm nòng cốt trong cuộc hội thảo quốc tế về ngôn ngữ học xã hội tổ chức tại Rouen 1978. Chính từ những hoạt động khoa học này đã dần dần hình thành nền tảng lý thuyết và thực nghiệm cho ngành thuật ngữ học xã hội (socioterminologie), mà sau này Louis Guespin sẽ phát triển một cách có hệ thống vào giữa thập kỷ 80. Sau 1980, nhóm được tái cơ cấu lại theo bốn hướng nghiên cứu chính, được thể hiện qua một loạt bài báo trong số 209 của Tạp chí La Pensée (1980) có chủ đề là Ngôn ngữ và xã hội. Đó là các vấn đề: Ngôn ngữ học xã hội trong thời kỳ khủng hoảng ngôn ngữ học; giai cấp xã hội và quan hệ xã hội trong vấn đề quyết định của ngôn ngữ; Chính sách ngôn ngữ: ngôn ngữ dân tộc, chuẩn ngôn ngữ, ngôn ngữ thiểu số, những vấn đề ngôn ngữ và chính trị; Ngôn ngữ, quan hệ xã hội và trường học; Khía cạnh dụng học trong ngôn ngữ học xã hội: mối liên quan giữa ngôn ngữ và quyền lực, giữa ngôn ngữ và lao động... Công trình Dẫn luận ngôn ngữ học xã hội (Nxb Larousse, 1974) của hai tác giả J.B. Marcellesi và B. Gardin là công trình đầu tiên ở Pháp giới thiệu ngành khoa học mới mẻ này. Qua công trình này mà độc giả Pháp bắt đầu tiếp cận với các tác phẩm của Bakhtine- Volochinov, Bernstein, Labov, và cũng từ đó, hàng loạt tác phẩm của họ được dịch sang tiếng Pháp, tạo thành một làn sóng tư tưởng mới về nhận thức luận khoa học cũng như về phương pháp luận nghiên cứu ngôn ngữ học tại Pháp. Tiếp theo đó là hàng loạt bài báo của nhóm nghiên cứu lần lượt được công bố trên các Tạp chí ngôn ngữ có uy tín như Langue française, Langages, Langage et Société, Mots, Linx, Cahiers de linguistique sociale, Cahiers de praxématique... Có thể nói, thành tựu nổi bật nhất, có ảnh hưởng lớn trong giới nghiên cứu thế giới, đó là việc khai sinh ra ngành nghiên cứu socioterminologie (thuật ngữ học xã hội), được manh nha từ những công trình của L. Guilbert và phát triển nền tảng lý thuyết và phương pháp nghiên cứu với L. Guespin, và sau này là F. Gaudin. 4 THAY LỜI KẾT: NGÔN NGỮ TRONG LAO ĐỘNG, MỘT LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU MỚI CỦA NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI Đây là một lĩnh vực nghiên cứu mới của ngôn ngữ học xã hội, mà nhóm nghiên cứu Langage et Travail (Hoạt động ngôn ngữ và Lao động), đứng đầu là B. Gardin. Như M. Lacoste đã chỉ, nó lấy đối tượng nghiên cứu là các cách thức mà những hoạt động xã hội được hình thành thông qua lời nói hằng ngày và dựa trên dữ liệu phân tích chủ yếu là những tương tác lời nói. Các tác giả trên cho rằng sở dĩ lĩnh vực này xứng đáng được nghiên cứu sâu là vì chưa bao giờ hoạt động nghề nghiệp bị xem như là một sự áp dụng máy móc các qui trình, quy tắc đã định sẵn, ngay cả trong những vị trí làm việc được xem như là đơn giản như là ở các dây chuyền sản xuất. Các thao tác lao động luôn luôn cần đến ý nghĩa và việc điều phối chúng trong tập thể lao động đòi hỏi một qui trình thương lượng và hợp tác thường xuyên, như trong mọi tình huống xã hội. Vì thế, hoạt động ngôn ngữ là một dạng thái cơ bản của việc hình thành yếu tố kỹ thuật và xã hội trong lao động: lao động chính là hòa hợp với người khác, là điều chỉnh hoạt động của mình cho ngày càng phù hợp hơn với hoạt động của người khác, trong không gian và thời gian, là Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95 95 cùng nhau tìm giải pháp cho một vấn đề, là đặt câu hỏi, là giải thích... Tóm lại, lao động luôn luôn đi kèm theo lời nói. Thế nhưng từ xưa đến nay, sản phẩm lời nói này thường bị coi thường, hoặc lãng quên, do chưa có những cuộc điều tra chi tiết. Bài viết này chỉ là một phát thảo sơ lược về ngôn ngữ học xã hội để kỷ niệm 10 năm ngày mất của Giáo sư B. Gardin (1940 - 2002), người đã có những đóng góp xuất sắc vào việc phát triển ngành nghiên cứu mới mẻ này ở Pháp và đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu về hoạt động ngôn ngữ của giới bình dân, nhất là giới công nhân Pháp. Đối với Việt Nam, ông có công rất lớn trong việc đào tạo nhiều du học sinh, trong đó có tác giả bài viết này, về lĩnh vực khoa học ngôn ngữ, trong đó có ngôn ngữ học xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bakhtine M., 1978. Esthétique et théorie du roman. Nhà xuất bản Gallimard. Paris. 488 trang. 2. Bakhtine M. & Volochinov V.N., 1977. Le marxisme et la philosophie du langage. Nhà xuất bản Minuit. Paris. 233 trang. 3. Baylon C. 1991. Sociolinguistique. Société, langue et discours. Nhà xuất bản Nathan. Paris. 303 trang. 4. Calvet L.-J., 1975. Pour et contre Saussure. Nhà xuất bản Payot. Paris. 153 trang. 5. Calvet L.-J. , 1999. Origines de la sociolinguistique La conférence de sociolinguistique de l’UCLA. Tạp chí Langage et Société. Số 88: 25-57. 6. Cohen M., 1956. Pour une sociologie du langage. Nhà xuất bản Albin Michel. Paris. 396 trang. 7. Dubois J. et al., 1994. Dictionnaire de linguistique et des sciences du langage. Nhà xuất bản Larousse. Paris. 672 trang. 8. Ducrot O. & Schafffer J.-M., 1995. Nouveau dictionnaire encyclopédique des sciences du langage. Nhà xuất bản du Seuil. Paris. 688 trang. 9. Ducrot O. & Todorov T., 1972. Dictionnaire encyclopédique des sciences du langage. Nhà xuất bản du Seuil. Paris. 475 trang. 10. Fishman J., 1971, La sociolinguistique. Nhà xuất bản Nathan. Paris. 160 trang. 11. Gardin B., 1988. Langage et travail. Etudes sociolinguistiques de discours ouvriers en entreprise, Luận án tiến sĩ quốc gia (tập 1), Đại học Rouen. TP Rouen, Pháp. 350 trang. 12. Gardin B. & Marcellesi J.-B., 1987. The subject matter of Sociolinguistics. Trong: U. Ammon, N. Dittmar, K. Mattheier (Editors). Sociolinguistics: an International Handbook of the Science of Language and Society, vol. 1, De Gruyter. Berlin/New York. 16-25. 13. Gumperz J., 1989. Engager la conversation. Nhà xuất bản Minuit. Paris. 192 trang. 14. Kerbrat-Orecchioni C., 1980. L’énonciation De la subjectivité dans le langage. Nhà xuất bản Armand Colin. Paris. 267 trang. 15. Kerbrat-Orecchioni C., 1990. Interactions verbales, Quyển 1. Nhà xuất bản Armand Colin. Paris. 355 trang. 16. Marcellesi J.-B., 1980. De la crise de la linguistique à la linguistique de la crise : la sociolinguistique. Tạp chí La Pensée. Số 209: 4-21. 17. Marcellesi J.-B., 1998. Contribution à l’histoire de la sociolinguistique : Origines et Développement de l’école rouennaise, trong J. Le Du (Editeurs), Y a-t-il une exception sociolinguistique française, La Bretagne linguistique. Số 10 : 39-57. 18. Marcellesi J.-B. & Gardin B., 1974. Introduction à la sociolinguistique. La linguistique sociale. Nhà xuất bản Larousse. Paris. 263 trang.
File đính kèm:
- ngon_ngu_hoc_xa_hoi_nhung_quan_niem_va_khuynh_huong.pdf