Phản biện xã hội - Phương thức quan trọng tạo sự đồng thuận xã hội

Thứ nhất, phản biện xã hội là cách thức

để các nhóm lợi ích khác nhau phản ánh

mong muốn của mình đến các nhà hoạch

địch chính sách, giúp cho họ có cái nhìn

rộng hơn, khoa học hơn, toàn diện hơn

trước khi ban hành một chính sách nào đó.

Nếu một chính sách khi ban hành chỉ

dựa trên ý chí chủ quan của chủ thể ra

chính sách sẽ rất dễ dẫn đến kết quả là:

Chính sách chỉ bảo vệ cho lợi ích của một

số ít, một nhóm ít người. Nếu mắc phải

điều này, khi đó, các nhóm lợi ích khác,

các tầng lớp khác trong xã hội sẽ thấy bất

bình và dẫn đến những phản kháng, chống

đối. Lúc đó, trong xã hội sẽ rất dễ có

những xung đột đáng tiếc, làm ảnh hưởng

đến sự phát triển chung.

Ngược lại, một chính sách đã được phản

biện một cách dân chủ, kỹ càng trước đó

thì các chính sách được ra đời một cách ít

chủ quan hơn, tức là sự xung đột của các

nhóm lợi ích đã được điều chỉnh thông quả

sự thảo luận và thỏa thuận. Đặc biệt, nó sẽ

giúp cho chủ thể cầm quyền tìm kiếm được

sự đồng thuận của đại đa số nhân dân ngay

từ trong chính sách. Điều này sẽ rất hữu

ích trong quá trình tổ chức thực hiện chính

sách sau đó.

pdf 5 trang yennguyen 4640
Bạn đang xem tài liệu "Phản biện xã hội - Phương thức quan trọng tạo sự đồng thuận xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phản biện xã hội - Phương thức quan trọng tạo sự đồng thuận xã hội

Phản biện xã hội - Phương thức quan trọng tạo sự đồng thuận xã hội
 PHẢN BIỆN XÃ HỘI - PHƯƠNG THỨC QUAN TRỌNG 
TẠO SỰ ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI 
NGUYỄN VĂN QUANG* 
1. Vai trò của phản biện xã hội đối với 
sự đồng thuận xã hội* 
Thứ nhất, phản biện xã hội là cách thức 
để các nhóm lợi ích khác nhau phản ánh 
mong muốn của mình đến các nhà hoạch 
địch chính sách, giúp cho họ có cái nhìn 
rộng hơn, khoa học hơn, toàn diện hơn 
trước khi ban hành một chính sách nào đó. 
Nếu một chính sách khi ban hành chỉ 
dựa trên ý chí chủ quan của chủ thể ra 
chính sách sẽ rất dễ dẫn đến kết quả là: 
Chính sách chỉ bảo vệ cho lợi ích của một 
số ít, một nhóm ít người. Nếu mắc phải 
điều này, khi đó, các nhóm lợi ích khác, 
các tầng lớp khác trong xã hội sẽ thấy bất 
bình và dẫn đến những phản kháng, chống 
đối. Lúc đó, trong xã hội sẽ rất dễ có 
những xung đột đáng tiếc, làm ảnh hưởng 
đến sự phát triển chung. 
Ngược lại, một chính sách đã được phản 
biện một cách dân chủ, kỹ càng trước đó 
thì các chính sách được ra đời một cách ít 
chủ quan hơn, tức là sự xung đột của các 
nhóm lợi ích đã được điều chỉnh thông quả 
sự thảo luận và thỏa thuận. Đặc biệt, nó sẽ 
giúp cho chủ thể cầm quyền tìm kiếm được 
sự đồng thuận của đại đa số nhân dân ngay 
từ trong chính sách. Điều này sẽ rất hữu 
ích trong quá trình tổ chức thực hiện chính 
sách sau đó. 
Thứ hai, phản biện xã hội là cách thức 
để nhân dân kiểm soát quyền lực của mình 
đối với những người được ủy quyền. 
* ThS. Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III. 
Những người có quyền lực – chủ thể của 
những mệnh lệnh, quyết sách rất dễ mắc 
phải một sai lầm cố hữu mà bấy lâu nay 
nhiều người vẫn mắc phải. Đó là, thói quen 
độc thoại và tự cho mình đã biết tất cả, chân 
lý là đã có sẵn do mình làm ra, chỉ cần rao 
giảng và thuyết phục công chúng tiếp thu – 
đây chính là một trong những biểu hiện của 
sự tha hóa quyền lực. Chủ thể của quyền 
lực “hay quên” một điều là, trong xã hội 
dân chủ, mọi quyền lực đều thuộc về nhân 
dân, quyền lực của họ chỉ là sự ủy thác từ 
nhân dân. 
Để khắc phục được nhược điểm đó, chủ 
thể quyền lực cần phải coi trọng vai trò của 
phản biển xã hội. Khi đó, những chân lý sẽ 
được ra đời từ sự tìm tòi, học hỏi, lắng 
nghe những ý kiến cả đồng ý và không 
đồng ý của những người tiếp nhận. Ở đây, 
nhân dân phản biện lại những ý tưởng, 
những việc làm của những người được 
nhân dân ủy thác không phải là sự soi mói, 
không phải là một ý đồ bãi quyền mà là 
làm cho người được ủy quyền thực hiện 
đúng chức trách của mình, đúng với mong 
mỏi của người ủy quyền cho mình, tránh 
được tình trạnh lạm dụng quyền lực, quyền 
lực bị tha hóa, biến chất. Thực thi được sự 
phản biện xã hội thường xuyên như vậy sẽ 
tạo ra được sự đồng thuận, sự ổn định cần 
thiết cho sự phát triển. Nếu không, chủ thể 
quyền lực đó sẽ phải đối mặt với sự bất 
mãn, chống đối và nghiêm trọng hơn sẽ là 
sự phản kháng. 
Phản biện xã hội 
63 
2. Những vật cản trong quá trình thực 
hiện phản biện xã hội 
Thứ nhất, sự “dị ứng” với những ý kiến 
trái ngược từ cấp dưới của những người có 
quyền lực. Đây là vật cản đầu tiên, nó tồn 
tại một cách hết sức tự nhiên, mang tính 
mặc định ngay trong tâm lý của bản thân 
những người có quyền lực – đó là ý kiến 
của lãnh đạo “luôn đúng”. Rất ít những 
người lãnh đạo muốn nghe những ý kiến 
ngược chiều, mang tính phản bác từ cấp 
dưới của mình, mặc dù những ý kiến đó 
mang tính xây dựng, mang tính phản biện 
chứ không phải là sự chống đối, phản 
kháng. Nhiều lãnh đạo còn cho rằng, phản 
biện rất dễ dẫn đến cái gọi đó là sự “bất 
ổn”, ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế của cá 
nhân hay cơ quan quyền lực mà họ đang 
nắm giữ. Vật cản này còn khá nặng trong 
những nền chính trị bị ảnh hưởng nhiều từ 
yếu tố Nho giáo và tàn dư từ chế độ phong 
kiến lâu đời. 
Thứ hai, thiếu cơ chế và môi trường 
thực sự dân chủ để cho những cá nhân, tổ 
chức có khả năng thực hiện được việc phản 
biện. Muốn có được môi trường phản biện 
dân chủ rộng rãi, quy tụ được nhiều đối 
tượng tham gia cần phải có được môi 
trường – hay nói cách khác là hệ thống thể 
chế đầy đủ được ban hành từ các chủ thể 
cầm quyền, từ các cơ quan quyền lực nhà 
nước – đối tượng của phản biện xã hội. 
Tuy nhiên, vì thiếu “thói quen” lắng nghe, 
từ tâm lý sợ “bất ổn”, đặc biệt là từ việc 
chưa hoàn chỉnh của nhà nước pháp quyền, 
cho nên việc tạo ra các môi trường pháp lý, 
tạo ra các cơ chế cho những cá nhân, tổ 
chức có thể tiến hành công tác phản biện 
đối với các chủ trương, chính sách, pháp 
luật một cách vô tư, thẳng thắn, dựa trên 
những cơ sở khoa học có chất lượng vẫn 
còn nhiều hạn chế, bất cập. 
Đây là hai vật cản mang tính căn bản, 
ảnh hưởng trực tiếp đến công tác phản biện 
xã hội. Mặc dù, các chủ thể quyền lực đều 
có thể hiểu được rằng, phản biện nhằm rà 
soát, khẳng định, bổ sung, đề xuất giải 
pháp đúng để thực hiện các mục tiêu xã hội 
thống nhất, tạo ra sự đồng thuận cao trong 
quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát 
triển. 
3. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát 
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt 
Nam trong xây dựng sự đồng thuận xã 
hội 
Xuất phát từ những đòi hỏi của công 
cuộc phát triển đất nước, nhận thức được 
vai trò quan trọng của phản biện xã hội đối 
với sự đồng thuận xã hội, trong các Văn 
kiện của Đảng gần đây đã đề cập đến vai 
trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, 
các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân 
đối với việc hoạch định đường lối, chủ 
trương, chính sách, quyết định lớn của 
Đảng và Nhà nước. Để thực hiện được mục 
tiêu này, cần thực hiện những gải pháp cơ 
bản sau: 
Thứ nhất, tạo ra một thế hệ những nhà 
lãnh đạo “biết lắng nghe” 
Đây là giải pháp mang tính nền tảng, 
bước đầu. Việc xóa đi tính ích kỷ trong tư 
duy lãnh đạo của những nhà lãnh đạo sẽ 
tạo tiền đề để cho những giải pháp khác, vì 
chính họ là đầu mối đưa ra các quyết sách. 
Những người lãnh đạo biết lắng nghe, biết 
chấp nhận những ý kiến trái ngược với suy 
nghĩ, với những quyết định của mình từ 
phía những cá nhân, tổ chức bên dưới của 
mình, đó là điều kiện đầu tiên để tạo ra môi 
trường cho công tác phản biện phát triển. 
Nếu gạt bỏ được tâm lý này, xã hội sẽ tạo 
ra được môi trường đối thoại hơn là độc 
thoại, hiện vẫn còn tồn tại khá phổ biến. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 9/2012 64 
Đặc biệt, nhờ sự lắng nghe từ cấp dưới sẽ 
giúp cho những cá nhân, những cơ quan 
quyền lực ra được những quyết sách dựa 
trên sự đo đạc rất cẩn thận, khoa học, phù 
hợp với đòi hỏi của cuộc sống. Nhờ đó, 
những chính sách sau khi ra đời sẽ nhận 
được sự đồng thuận cao trong quá trình 
thực thi. 
 Thứ hai, tạo ra một môi trường xã hội 
dân chủ, trong đó quyển được nói cần phải 
được coi trọng. 
Điều này liên quan đến các yếu tố như 
mở rộng dân chủ, xã hội dân sự, nhà nước 
pháp quyền hoàn thiện. Chỉ có một xã hội 
đã được dân chủ hóa cao, ở đó, người dân 
mới có được quyền bày tỏ ý kiến của mình 
một cách đầy dủ, trung thực. Điều này sẽ 
giúp cho các nhà lãnh đạo chính trị, các cơ 
quan quyền lực nhà nước có thể lắng nghe 
một cách đầy đủ, chân thành những ý kiến 
từ phía người dân, nhờ đó có được những 
thông tin phản hồi trung thực để kịp thời 
điều chỉnh, sửa chữa những thiếu sót nhằm 
hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính 
sách. 
Trong xã hội dân chủ, xã hội dân sự với 
vai trò phản biện và vai trò trọng tài. Xã 
hội dân sự chất chứa trong đó rất nhiều các 
tổ chức, mỗi tổ chức đại diện cho các cá 
nhân, những nhóm người có chung quan 
điểm, mục tiêu, lợi ích Cho nên, các tổ 
chức của xã hội dân sự nó có các quy tắc 
để hạn chế tất cả sự cực đoan, tất cả những 
hành vi không phù hợp với lợi ích công 
cộng. Vì vậy, nếu xã hội dân sự tham gia 
vào việc phản biện xã hội sẽ tạo ra những 
tiếng nói mang tính đại diện lợi ích cho đa 
số nhân dân. Nhờ vậy, các cơ quan quyền 
lực sẽ tạo ra được các chính sách đúng, vì 
lợi ích của đa số và tất nhiên sẽ tạo ra được 
sự đồng thuận xã hội ở mức cao. Đặc biệt, 
“nếu đạt được sự đồng thuận cao, thì các 
hoạt động của xã hội dân sự sẽ thúc đẩy 
mạnh mẽ việc huy động các năng lực, các 
sáng kiến và các khả năng khởi xướng hết 
sức đa dạng của các tầng lớp xã hội vào quá 
trình phát triển đất nước, và từ đó sẽ mặc 
nhiên tăng cường cho sức mạnh và tính hợp 
thức của chính nhà nước, cũng như củng cố 
cho sự đoàn kết quốc gia”1. 
Bên cạnh vấn đề dân chủ hóa, xã hội 
dân sự là nhà nước pháp quyền theo đúng 
nghĩa. Chỉ có xây dựng được một nhà nước 
pháp quyền hoàn thiện mới có thể tạo ra sự 
độc lập một cách tương đối của các cơ 
quan quyền lực nhà nước – đây là điều 
kiện cần để sự phản biện xã hội tồn tại và 
phát triển. Nhờ có sự độc lập tương đối của 
các cơ quan quyền lực nhà nước (lập pháp 
– hành pháp – tư pháp) mà có sự phản 
biện, kiểm soát, kiềm chế lẫn nhau ngay 
giữa các cơ quan quyền lực cấu thành nên 
nhà nước. Có như vậy mới khắc phục được 
sự lộng quyền, lạm quyền, vượt quyền của 
một nhánh quyền lực nào đó trong quá 
trình thực thi quyền lực. Đặc biệt, tránh 
được tình trạng lợi ích nhóm trong hoạch 
định một số chính sách. Ngoài ra, hoàn 
thiện nhà nước pháp quyền nhằm tạo cho 
nhà nước thực hiện được chức năng quản 
lý hoạt động phản biện xã hội bằng hệ 
thống pháp luật hoàn chỉnh và được thực 
thi một cách nghiêm minh, công bằng, bình 
đẳng. Hoàn thiện nhà nước pháp quyền 
cũng là điều kiện để có hành lang pháp lý 
quy định trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, 
chính quyền đối với hoạt động phản biện xã 
hội và làm cho phản biện xã hội trở thành 
khâu bắt buộc trong quá trình xây dựng đề 
án của chính sách trước khi cơ quan có 
thẩm quyền quyết định 
Phản biện xã hội 
65 
Thứ ba, tăng cường vai trò của Mặt trận 
Tổ quốc Việt Nam trong công tác phản 
biện xã hội 
Để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ 
quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân 
trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công 
cuộc đổi mới đất nước, tiếp nối quan điểm 
của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, 
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề 
ra nhiệm vụ cho Mặt trận và các đoàn thể 
nhân dân là: "Đảng, Nhà nước có cơ chế, 
chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và 
các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu 
quả, thực hiện vai trò giám sát và phản 
biện xã hội”2. Tuy nhiên, trong thực tiễn 
hoạt động của Mặt trận hiện nay, để thực 
hiện được vai trò phản biện xã hội của 
mình vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn, từ 
con người cho đến cơ chế hoạt động, hành 
lang pháp lý v.v.. Trong thời gian tới, để 
Mặt trận thực hiện tốt được vai trò phản 
biện xã hội của mình, cần phải giải quyết 
được những vấn đề sau: 
Một là, Mặt trận phải có những con 
người thật sự có đức, có tài, dám phản biện 
và biết phản biện. Bởi vì, phản biện xã hội 
đòi hỏi những con người biết suy nghĩ một 
cách chuyên nghiệp, làm việc có căn cứ 
khoa học cao hơn so với sự chất vấn hay 
trả lời, nên nó đòi hỏi người phản biện phải 
có trình độ lập luận dựa trên những căn cứ 
khoa học rõ ràng, lôgíc, khách quan, đại 
diện cho đa số. Muốn vậy, phản biện xã 
hội cần phải có sự tham gia của đội ngũ trí 
thức, chuyên gia có trình độ cao. Mặt trận 
cần phải có cơ chế chính sách thu hút 
những cán bộ có năng lực, phẩm chất và 
các chuyên gia giỏi thuộc các lĩnh vực, xây 
dựng đội ngũ cộng tác viên, tư vấn về phản 
biện xã hội. 
Hai là, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt 
Nam các cấp phải được độc lập về vấn đề 
tài chính, không thể áp dụng chế độ cấp 
kinh phí cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các 
cấp như một ngành (được quy định tại 
Điều 16, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). 
Trong thực tiễn hiện nay, Mặt trận Tổ quốc 
Việt Nam khó có thể phát huy được vai trò 
phản biện của mình đối với ngay chính bản 
thân những cơ quan mà Mặt trận thường 
xuyên phải xin kinh phí hoạt động. Muốn 
độc lập được về mặt tài chính, Mặt trận Tổ 
quốc Việt Nam phải được nhận phân bổ 
ngân sách từ Quốc hội, từ Hội đồng nhân 
dân các cấp hay Ủy ban nhân dân (đối với 
những nơi không có Hội đồng nhân dân). 
Để tiến hành công tác phản biện xã hội, Mặt 
trận Tổ quốc Việt Nam phải chi phí cho các 
hoạt động như nhóm họp các chuyên gia, 
đại diện các ngành, các giới, đi tiếp xúc tìm 
hiểu tâm tư nguyện vọng nhân dân,... Chỉ 
khi nào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được 
độc lập, tự quyết về tài chính, khi đó mới 
đảm bảo có tiếng nói khách quan. Muốn có 
được sự độc lập về tài chính, đòi hỏi phải có 
được sự sửa đổi, bổ sung hành lang pháp lý 
từ phía các cơ quan nhà nước. 
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải 
được độc lập về mặt nhân sự cho tổ chức 
của mình. Đây là điều kiện có tính quyết 
định chất lượng phản biện xã hội của Mặt 
trận Tổ quốc Việt Nam. Tại Điều 9 Điều lệ 
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ghi rõ: “Việc 
cử các chức danh lãnh đạo của Ủy ban 
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp theo 
Điều 14, Điều 23, Điều 25 và Điều 26 của 
Điều lệ này được thực hiện theo nguyên 
tắc hiệp thương dân chủ, nếu không nhất 
trí được thì bầu bằng phiếu kín; người 
trúng cử phải được quá nửa tổng số Ủy 
viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 
của cấp bầu tín nhiệm”. Nếu thực hiện 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 9/2012 66 
đúng với những qui định trong điều lệ này 
có thể đảm bảo được tính độc lập trong vấn 
đề nhân sự của Mặt trận Tổ quốc Việt 
Nam. Trong điều kiện hiện nay, Mặt trận 
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ 
các cấp đều trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo 
công tác cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt 
Nam, và hầu hết chức danh chủ tịch Mặt 
trận đều cơ cấu trong Ban Thường vụ của 
Đảng cùng cấp. Chính cơ cấu này đã hạn 
chế tính độc lập của Mặt trận Tổ quốc Việt 
Nam, từ đó ảnh hưởng đến quá trình phản 
biện. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ thực 
hiện được chức năng phản biện của mình 
một cách khách quan, có hiệu quả cao khi 
nó không bị bất cứ áp lực từ bất cứ cơ 
quan, tổ chức, cá nhân nào từ phía các cơ 
quan Đảng và Nhà nước. 
Như vậy, phản biện xã hội có vai trò hết 
sức quan trọng đối với sự đồng thuận xã 
hội. Xã hội muốn phát triển, giảm thiểu 
những xung đột không cần thiết cần phải 
coi trọng công tác phản biện xã hội, đặc 
biệt là phản biện trong quá trình ra chính 
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước 
nhằm tạo ra sự đồng thuận ngay từ chính 
sách. 
__________________ 
Chú thích 
1. Trần Hữu Quang, 2010. "Hướng đến một khái 
niệm khoa học về xã hội dân sự", Tạp chí Khoa 
hoc̣ xã hôị Việt Nam, số 4 (140), tr.20. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011. Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr.87. 
__________________ 
Tài liệu tham khảo 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011. Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
2. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), 2011. Đảng 
Cộng sản cầm quyền - nội dung và phương thức 
cầm quyền của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự 
thật, Hà Nội. 
3. Bố Thành Lương, Nghiên cứu cơ chế vận hành 
dân chủ cầm quyền, Thông tin những vấn đề lý 
luận, số 1, tháng 1/2012. 
4. Trần Hữu Quang, 2010. Hướng đến một khái 
niệm khoa học về xã hội dân sự, Tạp chí Khoa hoc̣ 
xã hôị Việt Nam, số 4 (140). 
5. Nguyễn Đăng Tấn, Chỉnh đốn Đảng và niềm tin 
đồng thuận,  ngày 
03/02/2012. 
6. Đào Trí Úc, 2009. Cơ chế giám sát của nhân dân 
đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7. Trịnh Thị Xuyến, 2008. Kiểm soát quyền lực 
nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở 
Việt Nam hiện nay, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 

File đính kèm:

  • pdfphan_bien_xa_hoi_phuong_thuc_quan_trong_tao_su_dong_thuan_xa.pdf