Managing Social Work According to the Educational Philosophy of Ho Chi Minh City University of Technology and Education

Abstract: This article helps administrators, social workers to see the reality and difficulties in

organizing, managing and implementing social activities for students at the Ho Chi Minh City

University of Technical and Education - a school that does not specialize in social work, but there

are diverse and diversified community-oriented activities.

pdf 8 trang yennguyen 3600
Bạn đang xem tài liệu "Managing Social Work According to the Educational Philosophy of Ho Chi Minh City University of Technology and Education", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Managing Social Work According to the Educational Philosophy of Ho Chi Minh City University of Technology and Education

Managing Social Work According to the Educational Philosophy of Ho Chi Minh City University of Technology and Education
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 1 (2020) 16-23 
16 
 Review Article 
Managing Social Work According to the Educational 
Philosophy of Ho Chi Minh City University 
of Technology and Education 
Nguyen Thi Nhu Thuy* 
Ho Chi Minh City University of Technology and Education, 
Vo Van Ngan, Linh Chieu, Thu Duc, Ho Chi Minh City, Vietnam 
Received 10 February 2020 
Revised 17 February 2020; Accepted 08 March 2020 
Abstract: This article helps administrators, social workers to see the reality and difficulties in 
organizing, managing and implementing social activities for students at the Ho Chi Minh City 
University of Technical and Education - a school that does not specialize in social work, but there 
are diverse and diversified community-oriented activities. 
Keywords: Social work, Governance, Social work Governance, Ho Chi Minh City University of 
Technical and Education, community, University of Technology and Education (UTE) Students. 
*
_______ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: ntnthuy@hcmute.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4368 
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 1 (2020) 16-23 
17 
Quản trị công tác xã hội theo triết lý giáo dục của 
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh 
Nguyễn Thị Như Thúy* 
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, 
Võ Văn Ngân, Linh Chiểu, Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam 
Nhận ngày 10 tháng 02 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 17 tháng 02 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 08 tháng 03 năm 2020 
Tóm tắt: Bài viết này giúp cho các nhà quản trị, những người làm công tác xã hội thấy được thực 
trạng và những khó khăn trong việc tổ chức, quản lý và triển khai các hoạt động công tác xã hội 
cho sinh viên tại Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh (HCMUTE) - một 
trường không đào tạo chuyên ngành công tác xã hội, nhưng có các hoạt động hướng đến cộng 
đồng khá đa dạng và phong phú. 
Từ khóa: Công tác xã hội, quản trị, Quản trị công tác xã hội, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật 
thành phố Hồ Chí Minh (HCMUTE), cộng đồng, sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật. 
1. Đặt vấn đề * 
Quản trị công tác xã hội theo triết lý giáo 
dục là một trong những hoạt động mà các 
trường đại học hiện nay đang áp dụng nhằm kết 
nối với mọi nguồn lực để cung cấp cho cộng 
đồng (cụ thể là sinh viên của các trường) những 
chương trình và dịch vụ hữu ích; giúp các em 
sinh viên có thể phát huy được năng lực của 
mình trong học tập, nghiên cứu và liên kết, hỗ 
trợ cộng đồng. Trường Đại học Sư phạm Kỹ 
thuật thành phố Hồ Chí Minh cũng không ngoại 
lệ, các hình thức và hoạt động trong công tác 
quản trị công tác xã hội tại Trường Đại học Sư 
phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh được cụ 
thể hóa bằng những hoạt động cụ thể như “Góc 
sẻ chia”; “Trung thu yêu thương”, là đầu 
_______ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: ntnthuy@hcmute.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4368 
mối cho những hoạt động công tác xã hội được 
triển khai và đạt được nhiều đánh giá tích cực. 
2. Quản trị công tác xã hội và triết lý giáo 
dục của nhà trường 
2.1. Định nghĩa 
Năm 1950, Kidneigh cho rằng quản trị công 
tác xã hội là một tiến trình chuyển đổi chính 
sách xã hội thành các dịch vụ xã hội,... trong 
một tiến trình hai chiều: (1)  chuyển đổi 
chính sách thành các dịch vụ xã hội cụ thể, và 
(2) sử dụng kinh nghiệm để sửa đổi điều chỉnh 
chính sách. Spencer cho rằng có sự nhất trí 
chung cho rằng: “Quản trị là sự lãnh đạo có ý 
thức những hoạt động và quan hệ nội bộ của 
doanh nghiệp để đạt được những mục đích đề 
ra”. Bà cũng thêm rằng nó bao gồm “sự can 
N.T.N. Thuy / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 1 (2020) 16-23 
18 
thiệp có ý thức vào các lực tương tương tác 
giữa cơ sở và cộng đồng rộng lớn hơn mà nó là 
một bộ phận”. Duham mô tả quản trị như là tiến 
trình “hỗ trợ hoặc tạo thuận lợi những hoạt 
động cần thiết và thử yêu đối với việc cung cấp 
trực tiếp dịch vụ của một cơ sở xã hội” [1]. 
Hoạt động quản trị bao gồm từ xác định chức 
năng và chính sách, lãnh đạo điều hành các hoạt 
động tác nghiệp thông thường như lưu giữ hồ 
sơ và kế toán và trong nông sản dịch vụ bảo 
dưỡng. Stein cho rằng định nghĩa về quản trị thì 
nhiều, nhưng tựu chung được chấp nhận hay 
hiện nay là quan niệm coi “Quản trị là một tiến 
trình xác định và đạt tới những mục tiêu của 
một tổ chức thông qua một hệ thống phối hợp 
và hợp tác các nỗ lực”. Trecker diễn dịch: quản 
trị công tác xã hội là “một tiến trình làm việc 
với con người bằng cách phát huy và liên kết 
năng lực của họ để họ sử dụng mọi tài nguyên 
sẵn có để thực hiện mục đích cung cấp cho 
cộng đồng những chương trình và dịch vụ cần 
đến” [1]. Quản trị công tác xã hội đang đến tuổi 
trưởng thành. Những người lãnh đạo giỏi cơ sở 
xã hội ngày càng là những nhà quản trị công tác 
xã hội chứ không phải là những nhà quản trị có 
kiến thức ngành công tác xã hội. Nhiều nhà 
điều hành cơ sở và giám sát viên (kiểm huấn 
viên) đã qua huấn luyện ở các trường công tác 
xã hội cho vị trí mà họ đảm nhiệm. Ngành 
Quản trị “như là một lĩnh vực trong công tác xã 
hội có được một chỗ đứng đúng đắn, và quản trị 
công tác xã hội là một phương pháp thực hành 
công tác xã hội căn bản giống như công tác xã 
hội cá nhân hay công tác xã hội nhóm đã có từ 
trước” [1]. 
2.2. Triết lý giáo dục của nhà trường 
“Nhân bản, sáng tạo, hội nhập” là triết lý 
của nhà trường với ý nghĩa chung là: Cộng 
đồng các nhà quản lí, giảng viên, sinh viên và 
các bên liên quan của Trường Đại học Sư phạm 
Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh cùng tham gia 
vào quá trình giáo dục, truyền cảm hứng và trợ 
giúp từng sinh viên trở thành các cá nhân có 
năng lực, lương tâm và trách nhiệm; khắc sâu 
trong tâm trí sinh viên tầm quan trọng của các 
kĩ năng mới, các kĩ năng của công dân toàn cầu, 
các kĩ năng khởi nghiệp và những kĩ năng cốt 
lõi khác. 
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành 
phố Hồ Chí Minh tin rằng việc học có ý nghĩa 
đầy đủ nhất khi từng cá nhân được tạo các cơ 
hội cho sự phát triển toàn diện các năng lực về 
nhận thức; xã hội; hành vi và chuyên môn kĩ 
thuật. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành 
phố Hồ Chí Minh cũng tin vào những giá trị cốt 
lõi của học tập suốt đời: từng cá nhân người học 
cần tự kiến tạo và mở rộng kiến thức, kĩ năng 
của chính bản thân để phát huy tiềm năng sáng 
tạo, qua đó thực hiện nguyện vọng của bản thân 
và phụng sự xã hội. 
Các giá trị cơ bản của một nền giáo dục tiên 
tiến; hiện đại đã, đang và sẽ được Trường Đại 
học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh 
tôn vinh, gìn giữ, phát huy một cách sáng tạo là: 
(1) Giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống 
nhân văn của dân tộc Việt Nam; (2) Nâng đỡ tài 
năng và tính sáng tạo; chú trọng đào tạo kỹ 
năng và trách nhiệm nghề nghiệp; (3) Tôn trọng 
lợi ích của người học và của cộng đồng. Xây 
dựng xã hội học tập; (4) Đề cao chất lượng, 
hiệu quả và sự đổi mới trong các hoạt động; (5) 
Hội nhập, hợp tác và chia sẻ [2, Trường Đại học 
Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh: 
Triết lý giáo dục]. 
3. Thực trạng quản trị công tác xã hội theo 
triết lý giáo dục tại Trường Đại học Sư phạm 
Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh 
Quy chế học sinh, sinh viên các trường đại 
học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp hệ 
chính quy ban hành kèm theo Quyết định số 
42/2007/QĐ-BGDĐT ngày 13/8/2007 của Bộ 
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã được thay 
thế bằng Thông tư 10/2016/TT-BGDĐT ngày 
05/4/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào 
tạo về việc ban hành Quy chế công tác sinh viên 
đối với chương trình đào tạo Đại học hệ chính 
quy quy định rõ tại Khoản 7, Điều 4 về nghĩa 
vụ của sinh viên: “Tham gia lao động công ích, 
hoạt động tình nguyện, hoạt động xã hội vì 
cộng đồng phù hợp với năng lực và sức khỏe 
theo yêu cầu của cơ sở giáo dục đại học”. Căn 
cứ vào quyết định của Bộ trưởng Bộ giáo dục 
N.T.N. Thuy / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 1 (2020) 16-23 
19 
và Đào tạo, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư 
phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh ban 
hành Quy định thực hiện chương trình Công tác 
xã hội đối với SV hệ chính quy theo Quyết định 
số 224/QĐ-ĐHSPKT-CTHSSV ngày 
09/12/2013 với mục đích phát huy tinh thần 
xung kích, tình nguyện của sinh viên vì cộng 
đồng; nhân ái, tương trợ và chủ động góp sức 
trẻ tham gia giải quyết các vấn đề đang được 
nhà trường và xã hội quan tâm, là những nền 
tảng dựa vào đó những dịch vụ được triển khai 
và sẵn sàng cho những ai cần đến chúng [3]. 
Qua đó nâng cao ý thức trách nhiệm của sinh 
viên đối với bản thân và cộng đồng; rèn luyện, 
nâng cao tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt 
trong hoạt động thực tiễn; hình thành các kỹ 
năng sống, trau dồi bản lĩnh tổ chức công 
việc, cho sinh viên trước khi ra trường. Sau 
khi Quy định được ban hành, các đơn vị và sinh 
viên toàn trường hưởng ứng và thực hiện 
nghiêm túc. 
Năm học 2013 - 2014 là năm đầu tiên triển 
khai thực hiện Quy định, nhà trường chỉ đạo và 
triển khai hoạt động qua việc xây dựng phần 
mềm quản lý hoạt động công tác xã hội; tập 
huấn cán bộ thực hiện các nội dung liên quan 
đến chương trình công tác xã hội; ban hành 
hướng dẫn sử dụng phần mềm quản lý hoạt 
động công tác xã hội, hướng dẫn giải quyết 
khiếu nại, các văn bản biểu mẫu đính kèm theo 
quy trình thực hiện hoạt động, Ngày 
06/3/2014, lãnh đạo nhà trường cùng các đơn vị 
có liên quan đã tiến hành họp đánh giá 01 năm 
thực hiện quy định ngày công tác xã hội đối với 
sinh viên hệ chính quy từ khóa 2012. 
Đầu mỗi năm học, Hiệu trưởng ban hành 
các Kế hoạch chỉ đạo các đơn vị và sinh viên 
thực hiện triển khai chương trình: Năm học 
2014 - 2015, theo Kế hoạch số 430/KH-
ĐHSPKT-CTHSSV ngày 01/10/2014; Năm học 
2015 - 2016, theo Kế hoạch số 230/KH-
ĐHSPKT-CTHSSV ngày 10/10/2015; Năm học 
2016 - 2017, theo Kế hoạch số 237/KH-
ĐHSPKT-CTHSSV ngày 17/10/2016; Năm học 
2017 - 2018, theo Kế hoạch số 295/KH-
ĐHSPKT-CTHSSV ngày 28/11/2017; Năm học 
2018 - 2019, theo Kế hoạch số 318/KH-
ĐHSPKT-CTHSSV ngày 23/10/2018. Kết thúc 
mỗi năm học, chương trình công tác xã hội 
được báo cáo, thống kê, nhận định qua các Báo 
cáo số 27/BC-ĐHSPKT-CTHSSV ngày 
05/3/2015, số 20/BC-ĐHSPKT-CTHSSV ngày 
11/4/2016, số 64/BC-ĐHSPKT-TS&CTSV 
ngày 18/11/2017, số 68a/BC-ĐHSPKT-
CTHSSV ngày 30/7/2018 [4]. 
Bằng triển khai chặt chẽ và định hướng 
từng năm học qua các văn bản ban hành, các 
đơn vị đã thường xuyên tuyên truyền, tổ chức 
các hoạt động công tác xã hội cho sinh viên 
tham gia, sơ kết, rút kinh nghiệm và luôn cải 
tiến, đổi mới trong hoạt động nhằm thực hiện 
tốt Quy định. Theo đó, các hoạt động công tác 
xã hội trong trường học được triển khai đều cho 
mỗi học kỳ, xem Hình 3.1. 
Hình 3.1. Số hoạt động công tác xã hội 
theo từng học kỳ. 
Nguồn: Thống kê của phòng công tác học sinh sinh 
viên của nhà trường 
Nhìn vào biểu đồ cho thấy rằng, các hoạt 
động công tác xã hội theo từng học kỳ có sự 
biến động khá đa dạng, cụ thể, từ học kỳ 1/13-
14 đến học kỳ 2/15-16 có dự gia tăng không 
ngừng về các hoạt động công tác xã hội phục vụ 
cộng đồng; nhưng từ học kỳ 2/15-16 đến học kỳ 
1/16-17, các hoạt động công tác xã hội phục vụ 
cộng đồng có vẻ giảm đi. Tuy nhiên, đến các 
học kỳ tiếp theo, nhà trường đã triển khai nhiều 
hoạt động công tác xã hội phục vụ cộng đồng 
trở lại, đặc biệt, chỉ tính từ học kỳ 1/17-18 đến 
học kỳ 2/17-18 đã tăng lên 75 hoạt động công 
tác xã hội. Điều này cho thấy rõ ràng giá trị 
“Giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống 
nhân văn của dân tộc Việt Nam” và “Tôn trọng 
lợi ích của người học và của cộng đồng” trong 
triết lý giáo dục của nhà trường được phát huy 
một cách hiệu quả. 
N.T.N. Thuy / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 1 (2020) 16-23 
20 
Các hoạt động công tác xã hội được triển 
khai và tổ chức được khá đa dạng và phong 
phú, hướng đến các nhóm cộng đồng như là 
sinh viên, các nhóm “yếu thế” trong xã hội dưới 
sự hỗ trợ của Nhà trường và các đơn vị trong 
trường, xem Bảng 3.1. 
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, các hoạt động 
công tác xã hội mà sinh viên lựa chọn nhiều nhất 
là chủ nhật xanh, sắp xếp kho/xưởng/phòng học 
của khoa; hỗ trợ các khoa/phòng ban/thư viện các 
hoạt động của đơn vị; tiếp đến là các hoạt động 
phong trào gắn liền với môi trường học tập của 
sinh viên (chiếm tỷ lệ lần lượt là 19.9%, 14.9% và 
13.6%). Một số các hoạt động khác phục vụ cộng 
đồng như hiến máu tình nguyện; mùa hè xanh/tiếp 
sức mùa thi, xuân tình nguyện, trung thu,... cũng 
được sinh viên tham gia khá nhiều (chiếm tỷ lệ 
lần lượt là 12.8% và 14.5%). 
Những nhu cầu của cộng đồng và cá nhân 
trong cộng đồng ấy luôn luôn là nền tảng cơ 
bản cho sự tồn tại của cơ sở xã hội và sự cung 
ứng các chương trình. Theo số liệu thống kê 
của nhà trường, các đơn vị thường xuyên tổ 
chức các hoạt động, trung bình mỗi học kỳ có 
159 hoạt động, 11,674 sinh viên tham gia các 
hoạt động và thu về 108,404 điểm công tác xã 
hội; nếu chỉ tính tính riêng 03 năm học gần đây 
(từ 2015-2016 đến 2017-2018) thì số lượng này 
cụ thể mỗi học kỳ có 182 hoạt động, 12,287 sinh 
viên tham gia các hoạt động và thu về 110,957 
điểm công tác xã hội [4], xem Hình 3.2. 
Để hoạt động quản trị công tác xã hội có 
hiệu quả, nhà trường phải được hiểu trong tính 
toàn bộ và tính nguyên bản của nó. ”Nó phải 
được xem như là một công cụ sáng tạo nên bởi 
các bộ phận có liên quan với nhau” [5]. Ngay từ 
khi Hiệu trưởng ban hành Quyết định thực hiện 
Quy định chương trình công tác xã hội đối với 
sinh viên hệ chính quy, Nhà trường đã đặt hàng 
công ty PSC xây dựng và đưa vào sử dụng phần 
mềm quản lý hoạt động công tác xã hội. Đến 
nay, phần mềm vẫn được sử dụng hiệu quả và 
hoàn thành tốt các yêu cầu từ nhà trường. Phần 
mềm có các chức năng sau: (1) Lập kế hoạch 
hoạt động công tác xã hội, hiển thị đầy đủ thông 
tin chi tiết về hoạt động, đơn vị tổ chức, các yêu 
cầu từ đơn vị tổ chức lên trang online sinh viên; 
(2) Cho sinh viên đăng ký tham gia hoạt động 
trên trang online sinh viên, có chức năng giới 
hạn sinh viên tham gia theo yêu cầu của đơn vị 
tổ chức; (3) Nhập điểm công tác xã hội cho sinh 
viên sau khi sinh viên hoàn thành chương trình 
công tác xã hội; (4) Hiển thị điểm công tác xã 
hội của sinh viên liên trang online để sinh viên 
theo dõi; (5) Xuất các biểu mẫu, bảng điểm cho 
sinh viên khi sinh viên cần; (5) Thống kê số 
liệu sinh tham gia hoạt động,... 
Bảng 3.1. Hoạt động công tác xã hội được sinh viên tham gia 
Nội dung Các phương án trả lời 
Số lượt 
chọn 
Tỉ lệ 
(%) 
Anh/Chị 
thường 
xuyên 
tham gia 
hoạt động 
CTXH nào 
sau đây (có 
thể chọn 
nhiều 
câu)? 
Tham gia Mùa hè xanh, Tiếp sức mùa thi, Xuân tình nguyện, Trung thu 852 14.5 
Tham gia Hiến máu tình nguyện 751 12.8 
Tham gia hoạt động tư vấn hướng nghiệp, tuyển sinh 483 8.2 
Hỗ trợ các Khoa/Phòng/Trung tâm/Thư viện các hoạt động của các đơn vị 875 14.9 
Hoạt động Chủ nhật xanh, sắp xếp kho/xưởng/phòng học của khoa 1.171 19.9 
Tham gia các hoạt động chăm lo cho người già neo đơn, trẻ em 248 4.2 
Tham gia giảng dạy chuyên môn, trợ giảng 135 2.3 
Tham gia tổ chức các hoạt động phong trào 802 13.6 
Khác 561 9.5 
Nguồn: Thống kê của phòng công tác học sinh sinh viên của nhà trường 
N.T.N. Thuy / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 1 (2020) 16-23 
21 
Hình 3.2. Số lượng sinh viên tham gia công tác xã hội theo từng học kỳ. 
Nguồn: Thống kê của phòng công tác học sinh sinh viên của nhà trường. 
Qua quá trình sử dụng, phần mềm được 
điều chỉnh các quy trình thực hiện sao cho phù 
hợp với thực tế của các đơn vị trong trường, 
đảm bảo khai thác tốt và hướng đến nhanh 
chóng, công khai, minh bạch. Và hiện tại có 19 
đơn vị trong nhà trường đã được cấp tài khoản 
và sử dụng phần mềm để thực hiện các quy 
trình tổ chức các hoạt động công tác xã hội. 
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành 
phố Hồ Chí Minh đã và đang đưa vào triển khai 
chương trình đào tạo 132 tín chỉ với nhiều cải 
tiến trong đào tạo cũng như phương pháp giảng 
dạy, kiểm tra, đánh giá; phát huy tối đa năng 
lực của người học; hướng người học đến với xã 
hội, phục vụ cộng đồng, xây dựng đất nước. 
Bên cạnh đó, Trường Đại học Sư phạm Kỹ 
thuật thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thí 
điểm đổi mới cơ chế hoạt động lộ trình tự chủ 
tài chính; các ngành đào tạo tại trường tiến đến 
kiểm định chất lượng quốc tế AUN-QA, 
ABET, đây cũng là yếu tố cần sinh viên 
trường phải nỗ lực tham gia hoạt động cộng 
đồng, xây dựng hình ảnh tốt đẹp của Trường 
Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí 
Minh với xã hội. Sinh viên Trường Đại học Sư 
phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh ngày 
càng năng động, sáng tạo và chủ động hội nhập, 
tình nguyện vì cộng đồng [4]. 
Thực hiện triết lý nhân bản, sáng tạo, hội 
nhập, việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền 
thống nhân văn của dân tộc Việt Nam; chăm lo 
đời sống, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng cho 
nhóm cộng đồng đông đảo trong nhà trường - 
đó chính là sinh viên. “Góc chia sẻ” được hình 
thành để đón nhận tấm lòng hảo tâm từ các tổ 
chức, cá nhân, doanh nghiệp bên ngoài cũng 
như các cán bộ, sinh viên trong nhà trường. 
PGS.TS Đỗ Văn Dũng, hiệu trưởng nhà trường, 
cho biết để thể hiện triết lý giáo dục “nhân bản - 
sáng tạo - hội nhập”, đặt giá trị nhân văn lên hàng 
đầu, nhà trường sẽ tổ chức nhiều hoạt động, công 
trình chăm lo sâu sắc đời sống vật chất, tinh thần 
cho sinh viên. Khu nghỉ trưa máy lạnh hoạt động 
từ 11h-13h, từ thứ hai đến thứ sáu. Sinh viên 
được ra vào khu vực này tự do. “Thực tế tôi 
chứng kiến nhiều sinh viên rất mệt mỏi, ngủ gục 
khắp nơi trong trường mỗi giờ trưa chờ để học 
tiếp vào buổi chiều trông rất tội nghiệp. Chúng 
tôi nghĩ ngay đến việc tận dụng khu vực hội 
trường bố trí chỗ nghỉ trưa đàng hoàng hơn cho 
sinh viên. Sau khi phát động, nhà trường nhận 
được quyên tặng bởi các cựu sinh viên, thầy cô 
giáo, nhà hảo tâm 120 chiếc võng để đưa vào khu 
nghỉ trưa này; nhà trường đã bố trí 60 - 70 võng 
vào nằm nghỉ trưa (Hiệu trưởng Trường Đại học 
Sư phạm Kỹ thuật chia sẻ). 
Cũng nằm trong chuỗi hoạt động ấy, “Góc 
sẻ chia” trở thành nơi đón nhận và lan tỏa 
những tấm lòng cao đẹp đồng hành, hỗ trợ, giúp 
đỡ sinh viên có hoàn cảnh kém may mắn. Cho 
đến nay, Góc chia sẻ đã hỗ trợ các em một cách 
thiết thực, bền vững, phải tạo ra một không gian 
N.T.N. Thuy / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 1 (2020) 16-23 
22 
để giúp đỡ các em hàng ngày, hàng giờ. Đó là 
những chiếc xe đạp, đồ dùng học tập, sách vở, 
gạo, thùng mì gói, Tất cả là tấm lòng của các 
mạnh thường quân, các thành viên trong trường 
góp sức. 
Như đã thống kê ở trên, các hoạt động chăm 
lo cho người già neo đơn, trẻ em do Đoàn, Hội 
sinh viên cũng như trung tâm dịch vụ sinh viên 
phối hợp tổ chức đã đến được với các nhóm 
cộng đồng yếu thế trong xã hội. Những hoạt 
động từ thiện, Trung thu yêu thương, Tết sẻ 
chia, đã góp phần kết nối được những hoạt 
động vì cộng đồng của sinh viên, và các đơn vị 
trong trường. 
4. Những vấn đề đặt ra 
Theo nhận định trong dự thảo báo cáo đánh 
giá 5 năm thực hiện công tác xã hội của nhà 
trường thì nhân sự phụ trách công tác tổ chức 
các hoạt động công tác xã hội tại các khoa ít, 
thường được gắn với Bí thư Đoàn khoa (là cán 
bộ viên chức) kiêm nhiệm phụ trách, không có 
nhiều thời gian đầu tư cho hoạt động. 
Hơn nữa, vì có quá nhiều đơn vị tổ chức các 
hoạt động công tác xã hội trong nhà trường: 
Trung tâm dịch vụ sinh viên, Đoàn - Hội sinh 
viên, các Khoa, phòng ban nên nhiều khi các 
hoạt động và chức năng chồng chéo lên nhau. 
Nên thiết nghĩ, căn cứ trên mục tiêu chất lượng 
cũng triết lý giáo dục của nhà trường trong xu 
thế hội nhập, nhà trường cần có Trung tâm công 
tác xã hội hoặc mở ngành đào tạo Công tác xã 
hội (vừa đào tạo nhân viên công tác xã hội để 
cung cấp nguồn lực cho xã hội, vừa tổ chức và 
thực hành công tác xã hội, trang bị các phương 
pháp công tác xã hội một cách đồng bộ, trong 
đó quản trị ngành) để mang lại tính hiệu quả 
cao hơn. 
Như đã phân tích ở trên, những người lãnh 
đạo giỏi cơ sở xã hội ngày càng là những nhà 
quản trị công tác xã hội chứ không phải là 
những nhà quản trị có kiến thức ngành công tác 
xã hội,... [3]. Và quản trị công tác xã hội là một 
phương pháp thực hành công tác xã hội căn bản 
giống như công tác xã hội cá nhân hay công tác 
xã hội nhóm đã có từ trước [5]. Mặc dầu đã đạt 
được những kết quả nhất định trong các hoạt 
động vì cộng đồng, nhưng đặc thù là một 
trường đào tạo về kỹ thuật, nên khi nói đến các 
hoạt động công tác xã hội tại trường, người ta 
thường nghĩ đến những hoạt động công tác xã 
hội trong sinh viên, những hoạt động thiện 
nguyện, ít khi nhắc đến vai trò của quản trị 
công tác xã hội trong nhà trường. 
Các đơn vị ngoài trường ghi nhận kết quả 
tham gia các hoạt động công tác xã hội của sinh 
viên là một tiêu chí đánh giá để xét tuyển dụng, 
xét học bổng, xét các danh hiệu sinh viên, điều 
đó thể hiện việc sinh viên tham gia các hoạt 
động công tác xã hội là điều mà các đơn vị, 
doanh nghiệm và xã hội cần và khuyến khích. 
Rõ ràng là các doanh nghiệp đang có xu hướng 
hướng đến các hoạt động công tác xã hội trong 
trường học, nhưng họ chỉ dừng lại ở việc ghi 
nhận kết quả chứ chưa cho thấy vai trò kết nối 
của các doanh nghiệp với các hoạt động công 
tác xã hội trong sinh viên. 
Một bộ phận nhỏ sinh viên trường vẫn còn 
bàn quan, chưa ý thức được trách nhiệm của 
sinh viên là phải tham gia hoạt động xã hội; chủ 
quan, không thực hiện nghiêm túc quy định. 
Việc tổng kết đánh giá kết quả hoạt động 
công tác xã hội 5 năm một lần trong trường học 
có vẻ chưa thực sự hợp lý, bởi nhà quản trị cần 
nắm được khả năng hỗ trợ cũng như mức độ 
đáp ứng nhu cầu, mong đợi của các nhóm đối 
tượng kịp thời nhằm có những hoạt động hỗ trợ 
hợp lý trong từng giai đoạn khác nhau. 
5. Kết luận 
Tuy vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất 
định trong việc tổ chức và thực hiện các hoạt 
động công tác xã hội, nhưng với triết lý giáo 
dục “nhân bản, sáng tạo, hội nhập” trong quá 
trình hội nhập và sáng tạo, quản trị công tác xã 
hội tại Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành 
phố Hồ Chí Minh - với nguyên tắc quản lý, tính 
hiệu quả và tính kết quả đã được vận dụng một 
cách thiết thực dựa trên các mối quan hệ nhân 
sự đã và đang có trong nhà trường, chính vì vậy 
trong lĩnh vực quản trị các cơ sở dịch vụ xã hội 
(như trung tâm dịch vụ sinh viên, Đoàn - hội 
N.T.N. Thuy / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 1 (2020) 16-23 
23 
sinh viên, các Khoa chuyên ngành) đã góp phần 
giúp họ đảm nhận tốt chức năng nhà quản lý, tổ 
chức cơ sở và người cán sự xã hội tận tụy với 
công việc giúp đỡ con người. 
Các hoạt động công tác xã hội trong trường 
học được triển khai và đáp ứng nhu cầu của 
cộng đồng sinh viên trong nhà trường; nhiều 
hoạt động hướng đến và hỗ trợ, giúp đỡ các 
nhóm cộng đồng yếu thế như chiến dịch xuân 
tình nguyện, mùa hè xanh, hiến máu nhân 
đạo, đã khuyến khích được đông đảo sinh 
viên trong nhà trường tham gia, góp phần cụ thể 
hóa ý nghĩa của “việc học có ý nghĩa đầy đủ 
nhất khi từng cá nhân được tạo các cơ hội cho 
sự phát triển toàn diện các năng lực về nhận 
thức; xã hội; hành vi và chuyên môn kĩ thuật”. 
Các hoạt động này ít nhiều đã phản ánh được 
tinh thần và trách nhiệm vì một cộng đồng đoàn 
kết, một xã hội văn minh, phát triển và thịnh 
vượng, vì những con người yếu thế đang cần 
đến sự hỗ trợ của các “thân chủ” mà cộng đồng 
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố 
Hồ Chí Minh đang triển khai theo triết lý lý 
giáo dục nhân bản của nhà trường. 
Hoạt động đánh giá, kiểm huấn quản trị 
công tác xã hội trong trường học được triển 
khai theo lộ trình nhằm không ngừng nâng cao 
hiệu quả hoạt động cộng đồng trong sinh viên 
trong giai đoạn mới, nhận định những mặt đạt 
được, cần phát huy và những vướng mắc cần 
được điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với thực 
tế tại trường, từ đó xây dựng mới quy định về 
hoạt động công tác xã hội. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Le Chi An, Governance of social work, Thanh 
Hoa Publishing House, 2007. (in Vietnamese). 
[2] Ho Chi Minh City University of Technology and 
Education, Philosophy of Education: 
https://hcmute.edu.vn/triet-ly-giao-duc/, 2019 
(accessed 28 November 2019). (in Vietnamese). 
[3] Announcement No. 317 / TB-DHSPKT, October 
23, 2018, On the implementation of 5-year 
assessment of the implementation of social work 
program for regular students, 2018. 
(in Vietnamese). 
[4] Draft Report summarizing 05 years of 
implementing regulations on organizing social 
work programs of regular students (2013-
2018)/BC-DHSPKT-TS & CTSV/November, 
2018. (in Vietnamese). 
[5] A. Harry Schatz, Tran Quy Hung (translated), 
Social work administration, Social bookcase 
published before, 1975. (in Vietnamese). 
H 
h 

File đính kèm:

  • pdfmanaging_social_work_according_to_the_educational_philosophy.pdf